Quan niệm khắc hợp vợ chồng dưới nhãn quan năng lượng

03:27 |
(Bài viết được hoàn thành trong khoảng thời gian 20-24/4/2012)
Việc dựng vợ gả chồng đối với các bạn trẻ dường như có vẻ không phức tạp cho lắm, với họ chỉ cần “tâm đầu ý hợp”, “yêu nhau là lấy”, đồng thời sự lựa chọn chủ yếu dựa vào yếu tố tình cảm và tính tình….Tuy nhiên với các bậc sinh thành thì đó lại là một vấn đề phức tạp cần nhiều đắn đo, suy tính. Những tiêu chuẩn về tình cảm, tính tình của con trẻ bị xem xét lại. Đồng thời mặt khác họ quan tâm đặc biệt tới vấn đề nghề nghiệp, tuổi tác, sự môn đăng hậu đối...Dường như những thứ trên có vẻ tạm ổn rồi thì một cửa ải cuối cùng hay được đặt ra đó chính là “sự hợp tuổi” của hai trẻ.

Lúc này niềm tin vào số mệnh lại được thổi bùng lên trong tâm trí của những bậc cha mẹ. Cũng đơn giản thôi, khi cha mẹ luôn coi con cái là một phần quan trọng của cuộc đời mình. Họ liền nhờ thầy so tuổi, tính duyên, nếu hợp thì đồng ý, nếu
gặp khắc thì có khi còn ngăn cấm, cản trở. Những phương pháp được ứng dụng để làm việc này rất nhiều, trong đó việc xét sự khắc hợp của vợ chồng bằng lý luận Phương đông chiếm đa số, đó là chưa kể những phương pháp mang nhiều màu sắc huyền bí, kỳ ảo khác. Tuy nhiên, theo tôi hầu hết các phương pháp đều tựu chung ở chỗ dùng các mã số thuộc dạng siêu kí hiệu, siêu công thức để trả lời cho vấn đề hợp khắc của hai người.
Về cơ bản có các phương pháp xét đoán sự khắc hợp như sau:
1. Cách tính 2 tuổi dựa theo Cung sinh và Cung phi của phong thủy.
2. Cách tính 2 tuổi dựa theo Can của năm sinh.
3. Cách tính 2 tuổi dựa theo Chi của năm sinh.
4. Cách tính 2 tuổi dựa theo Bản mệnh của năm sinh.
5. Cách tính 2 tuổi kết hợp cả 2 yếu tố: can năm sinh của người nam, và chi năm sinh của người nữ (cách tính tuổi phổ thông của nước Triều Tiên xưa).
6. Cách tính 2 tuổi kết hợp cả 3 yếu tố: can, chi, bản mệnh của năm sinh.
7. Cách tính sự khắc hợp dựa theo lá số Tử vi của hai người.
8. Xem xét sự khắc hợp của trai gái bằng cách xem xét cụ thể trường năng lượng.
….
Tôi nghĩ chìa khóa của vấn đề khắc hợp vợ chồng chính là vấn đề phù hợp ít hay nhiều của trường năng lượng giữa hai người. Cụ thể mỗi người khi sinh ra mang trong mình một trường năng lượng có tính đặc thù. Và trường năng lượng ấy luôn tương tác với những trường năng lượng xung quanh. Khi trường năng lượng đó gặp những trường năng lượng tương đồng, hòa hợp thì chúng tương tác theo chiều hướng tích cực mang đến những điều tốt đẹp, thuận lợi cho đương sự. Và ngược lại nếu hai trường năng lượng không tương đồng hòa hợp thì chúng tương tác với nhau theo chiều hướng xấu và kết quả là sự bất hòa, cản trở, khó khăn, có người gọi là “không hợp”. Qua quan sát thực tế, hầu hết tất cả các phương pháp xem xét sự khắc hợp của 2 người như: tính tuổi hoặc dự đoán bằng các phương pháp khác đều có bản chất là xem xét sự hòa hợp tương đồng của 2 trường năng lượng. Điều đó là như thế nào?
Một con người sinh ra được đánh dấu bằng một sự kiện quan trọng trong hệ thống không gian nhiều chiều mà ở đó chiều không gian và chiều thời gian của hệ thống không gian đang hiện hữu đóng một vai trò gần như là đứng đầu. Sự đánh dấu đó được ghi lại bằng sự kiện là: giờ, ngày, tháng, năm sinh…của người đó. Theo nền văn hóa phương đông, chúng được ký hiệu bằng những siêu ký hiệu là Thiên Can và Địa Chi
Trong đó Thiên Can bao gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
Địa chi bao gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Những siêu ký hiệu đó được dùng để mã hóa thời điểm sinh của một con người. Đó chính là những siêu ký hiệu mã hóa lại đặc tính năng lượng của con người dựa vào thời điểm người đó sinh ra. Theo đó thì không có gì lạ khi hầu hết những bộ môn bói toán (tôi thích dùng từ này hơn từ dự đoán) số mệnh con người đều lấy nó làm dữ liệu đầu vào.
Liệu có thể nói vấn đề tương hợp, xung khắc của vợ chồng chính là vấn đề mang bản chất là tương tác trường năng lượng giữa hai người. Mà trường năng lượng ấy được mã hóa bằng các siêu ký hiệu và siêu công thức được dùng trong các bộ môn dự đoán số mệnh con người. Hoặc cũng có thể năng lượng ấy được đáo đạt bằng một cách đặc biệt nào đó.
Dưới đây tôi sẽ trình bày tổng quát về một số phương pháp, luận tuổi, dự đoán sự hợp khắc của mối quan hệ trai gái/vợ chồng. Hy vọng phần nào có thể làm rõ ý niệm này...
1. Sự khắc hợp của trai gái tính theo Cung sinh và Cung phi của Phong thủy.
Việc xem xét sự khắc hợp này dựa trên một trường phái lớn của phong thủy là trường phái bát trạch minh cảnh. Theo trường phái này thì với mỗi một năm tuổi và giới tính khác nhau ta thành lập được một quái mệnh (mệnh được mã hóa bằng bát quái) và mối quái mệnh thì có những hướng nhà ở tốt và xấu nhất định. Cụ thể những người có quái mệnh là Chấn, Tốn, Ly, Khảm (gọi là người có mệnh Đông tứ trạch) thì có các hướng tốt cố định là: Bắc, Đông, Đông Nam  Nam, còn lại là các hướng xấu. Và ngược lại với những người có quái mệnh là, Khôn, Đoài, Càn, Cấn (gọi là những người có mệnh Tây tứ trạch) có các hướng tốt còn lại (so với người mệnh Đông tứ trạch). Trên cơ sở đó, mỗi người đều có 4 hướng nhà tốt và 4 hướng nhà xấu là: Sinh Khí – Thiên Y – Phúc Đức – Phục Vị - Tuyệt Mạng -Ngũ Quỷ – Lục Sát – Họa Hại.
Trên cơ sở đó việc ứng dụng các thuật ngữ của Phong thủy bát trạch được tính toán(?) ứng dụng vào việc tính sự khắc hợp của trai gái. Cụ thể:
Về mặt định lượng, có 8 cung sinh cho và 8 cung phi cho nam và nữ (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn), sự phối hợp của cung sinh và cung phi được xét độc lập kết hợp lại sẽ cho ra 2 x 64=128 trường hợp, bao gồm 2 lần 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Ly, Càn – Chấn, Càn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ: Sinh Khí – Thiên Y – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy có 2 x 64 =128 trường hợp tương tác tuổi. Về mặt đại thể một người có một cung phi hoặc một cung sinh cụ thể thì tương tác với các tuổi khác thì một nửa là tương tác tốt, một nửa là tương tác xấu. Bởi thế cho nên về mặt xác xuất thì cứ gặp 2 người là sẽ có một người hợp với mình. Nói một cách phổ quát thì trong 40 triệu người đàn ông (phụ nữ) của nước mình chẳng hạn thì có tới 20 triệu người hợp để bạn có thể đi tới hôn nhân. Như vậy tỷ lệ phù hợp là 1/2.
2. Sự khắc hợp của trai gái tính theo Can của năm sinh.
Thiên Can bao gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
Việc sinh khắc giữa trai gái tùy theo 2 can của 2 tuổi trai gái hợp nhau hay phá nhau. Khi hợp thì có triển vọng tốt, khi phá thì xấu.
- Có 5 trường hợp tốt:
Khi nào 2 can rơi vào 1 trong các trường hợp sau gọi là tốt:
+ Giáp hợp Kỷ, 
+ Ất hợp Canh, 
+ Bính hợp Tân, 
+ Đinh hợp Nhâm,
+ Mậu hợp Quý.
Việc hợp có hai chiều tức là VD Giáp hợp Kỷ cũng có nghĩa là Kỷ hợp Giáp
- Có 10 trường hợp xấu:
Khi nào 2 can rơi vào 1 trong mười trường hợp sau gọi là phá:
+ Giáp phá Mậu,
+ Ất phá Kỷ,
+ Bính phá Canh,
+ Đinh phá Tân,
+ Mậu phá Nhâm,
+ Kỷ phá Quý,
+ Canh phá Giáp,
+ Tân phá Ất,
+ Nhâm phá Bính,
+ Quí phá Đinh.
Trong quan hệ phá thì chỉ có tính một chiều. Chẳng hạn Giáp phá Mậu chứ Mậu lại không phá Giáp. Nói một cách cụ thể nếu trai tuổi Giáp, gái tuổi Mậu thì tuổi cô gái bị Phá. Điều này không có nghĩa là người con trai đắc lợi. Vì dù sao khi tuổi cậu phá tuổi cô, hạnh phúc phải bị sứt mẻ, cậu cũng ảnh hưởng. Có lẽ ý quan tâm ở đây là tuổi nào bị phá thì nặng hơn mà thôi. 
Một số nhận xét [1]
+ Trong năm cách hợp, bao giờ cũng có một can dương và một can âm 
+ Trong mười cách phá, bao giờ hai can cũng đồng âm hoặc đồng dương
+ Không phải bất kỳ can dương nào cũng hợp với can âm và không phải hai can cùng dương hoặc cùng âm nào cũng phá nhau.
+ Cách hợp và phá chỉ có tính cố định cho 2 can nào đó mà thôi
+ Có một số can không hợp cũng không phá nhau. Ví dụ như Ất và Mậu, không thấy nằm trong cách hợp hay cách phá nào. Có lẽ đây là trường hợp bình thường, không phá có thể xem như hợp.
Như vậy, nếu tính toán định lượng trung bình cứ 10 người thì có một người hợp với mình khi tính toán khắc hợp tuổi theo hàng can của năm sinh. Tương tự cho trường hợp phá. Xét về tính xác suất thì ít ra phương pháp này cũng có tính phổ quát của sự tương hợp đã được giảm xuống, xem ra có vẻ tính chính xác cao hơn phương pháp cung phi ở trên. Với tỷ lệ phù hợp là 1/10.
3. Sự khắc hợp của trai gái tính theo Chi của năm sinh.
Địa chi bao gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
a/Vấn đề hợp:
Có người cho rằng phải lấy qui tắc tam hợp và nhị hợp để xét tuổi trai gái. Theo đó những bộ dưới đây gọi là hợp nhau.
+ Dần Ngọ Tuất + Tỵ Dậu Sửu+ Thân Tý Thìn, + Hợi Mão Mùi. Những bộ sau gọi là nhị hợp: Tý Sửu-Dần Hợi-Mão Tuất-Thìn Dậu-Tỵ Thân-Ngọ Mùi.
Theo tác giả Nguyễn Phát Lộc, ông cho rằng 2 qui tắc trên không phải để xét tuổi trai gái mà để định cách phối chiều trong lá số tử vi mà thôi. Những chữ Dần, Ngọ Tuất là tên các cung trên lá số tử vi chứ không phải tên các tuổi. Vậy nên ông cho rằng không thể lấy quy tắc phối chiều giữa các cung là quy tắc sinh hợp giữa các tuổi. Thành thử ông cho rằng quan điểm này không đúng.
Một số người còn đem cả lý luận về đặc tính của các con thú trong 12 địa chi để tìm hiểu sự xung khắc. Quan điểm này xem không ổn vì có quá nhiều mâu thuẫn về các lối suy diễn..
Về bản thân tôi, khi trao đổi với một số người nghiên cứu lý học thì cũng có nhiều ý kiến trái chiều nhau. Tuy nhiên đa phần quan điểm đều đồng tình về việc sử dụng những bộ Tam hợp và nhị hợp trong một phần của xét đoán tuổi vợ chồng.
b/ Vấn đề khắc:
Có quan điểm cho rằng có 6 loại tuổi khắc nhau: Tý Ngọ, Mão Dậu, Dần Thân, Tỵ Hợi, Thìn Tuất, Sửu Mùi.
Nếu nhìn trên bình diện phương hướng thì đây đều là các hướng đối diện nhau qua trung tâm. VD Tý là phương Bắc, khắc với Ngọ là phương Nam…đồng thời Tý là Thủy cũng khắc Ngọ là Hỏa nên Tỵ Ngọ cũng khắc nhau theo ngũ hành. Tôi cũng đính chính luôn là nhiều người dựa vào các câu phú chẳng hạn như, “Tý Ngọ Mão Dậu Tứ hành xung” thực chất nếu có xung thì chỉ có Tý xung với Ngọ, Mão xung với Dậu chứ không phải cả 4 cái đều xung nhau.
Lại xét về mặt định lượng, nếu tính theo hàng chi thì trung bình cứ 12 người ta gặp thì có 3 người hợp với mình. Cũng có nghĩa là trung bình cứ 4 người thì có một người hợp tuổi với mình. Thậm chí tất cả những người sinh trong một năm cũng hợp với mình VD Bạn tuổi Dần thì tất cả những người sinh trong năm Hợi đều hợp với bạn. Xem ra cách tính tuổi khắc hợp trai gái theo chi năm sinh cũng có xác suất tin cậy không cao lắm. Với tỉ lệ phù hợp tính theo hàng chi là ¼.
4. Sự khắc hợp của trai gái tính theo Bản mệnh
Có tất cả 30 loại bản mệnh khác nhau là: (theo trường phái Lạc Việt, khác với lục thập Hoa Giáp cổ xưa là hiệu chỉnh lại tính chất mệnh Thủy và Hỏa thay đổi cho nhau))
Giáp Tí. Ất Sửu: Hải Trung Kim
Bính Dần. Đinh Mão: Giáng Hạ Thuỷ 
Mậu Thìn. Kỷ Tỵ: Đại Lâm Mộc

Canh Ngọ. Tân Mùi: Lộ Bàng Thổ
Nhâm Thân. Quí Dậu: Kiếm Phong Kim
Giáp Tuất. Ất Hợi: Tuyền trung Thuỷ.

Bính Tí, Đinh Sửu: Lư Trung Hoả
Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành Đầu Thổ
Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch Lạp Kim.

Nhâm Ngọ, Quí Mùi: Dương Liễu Mộc
Giáp Thân, Ất Dậu: Sơn Đầu Hoả
Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc Thượng Thổ.

Mậu Tí, Kỷ Sửu: Trường Lưu thuỷ
Canh Dần, Tân Mão: Tùng Bách Mộc
Nhâm Thìn, Quí Tỵ: Tích Lịch Hoả.

Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim
Bính Thân, Đinh Dậu: Thiên Hà Thuỷ
Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình Địa Mộc.

Canh Tí, Tân Sửu: Bích Thượng Thổ
Nhâm Dần, Quí Mão: Kim Bạch Kim
Giáp Thìn, Ất Tỵ: Đại Khê Thuỷ.

Bính Ngọ, Đinh Mùi: Sơn Hạ Hoả
Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Dịch Thổ
Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim.

Nhâm Tí, Quí Sửu: Tang Đố Mộc
Giáp Dần, Ất Mão: Phúc Đăng Hoả
Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa Trung Thổ.

Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Đại Hải Thuỷ
Canh Thân, Tân Dậu: Thạch Lựu Mộc
Nhâm Tuất, Quí Hợi: Thiên Thượng Hoả.

Trong bất kỳ một bản mệnh nào cũng có hai yếu tố là: Ngũ hành của bản mệnh và thể tính của bản mệnh đó. Ví Dụ Mậu Thìn là Đại Lâm Mộc có ngũ hành thuộc mộc và thể tính là Cây trong rừng lớn. Với hai yếu tố này, đặc biệt là thể tính được diễn âm từ văn hán. Hầu hết những lời giải thích về thể tính của từng tuổi đều do người đời sau tự suy diễn ra mà không có sách nào ghi lại. Cho nên việc giải đoán rất phong phú đa dạng, mạnh ai nấy đoán theo lối suy diễn của riêng mình.[1]

Về cơ bản việc giải đoán khắc hợp dựa vào 2 bản mệnh mặc dù khá thông dụng nhưng xét cho cùng thì không giúp đưa đến một kết luận dứt khoát cho đa phần các trường hợp. Vd của con trai mệnh là Hải trung kim (Vàng trong biển), con gái là Đại Lâm mộc (Cây trong rừng lớn). Xét về mặt ngũ hành thì Kim khắc Mộc, tức bản mệnh của người con trai khắc bản mệnh người con gái. Nhưng xét về mặt thể tính thì kim ở biển thì không thể cắt được gỗ ở trong rừng. Vậy nên có người kết luận là khắc mà không khắc được. Một kết luận khá kỳ quoặc. Mặc dù cứ cho là chấp nhận kết luận ấy đi thì cũng khó mà tiên toán nổi hình thái của hạnh phúc hay khó khăn ở mức độ như thế nào...Vậy nên có lẽ việc đối chiếu hai bản mệnh chỉ có ý nghĩa là bổ túc cho sự khắc hợp hơn là quyết định sự khắc hợp một cách đơn lẻ. [1]
5. Sự khắc hợp của trai gái tính theo can năm sinh của người nam, và chi năm sinh của người nữ.
Cách dự đoán này còn gọi là bài toán Cao Ly, hoặc được diễn giải dưới dạng Cao Ly đồ hình, mà nội dung được gói trong trong bài phú sau đây.
*Nam GIÁP-KỶ lấy vợ tuổi 
Tý Ngọ được tam Hiển Vinh 
Sửu Mùi bị nhì Bần Tiện 
Dần Thân được nhất Phú Quý 
Mão Dậu được bị ngũ Ly Biệt 
Thìn Tuất được tứ Đạt Đạo 
Tỵ Hợi được tam Hiển Vinh. 

*Nam tuổi ẤT CANH lấy vợ tuổi 
Tý Ngọ bị nhì Bần Tiện 
Sửu Mùi được nhất Phú Quý 
Dần Thân bị ngũ Ly Biệt 
Mão Dậu được tứ Đạt Đạo 
Thìn Tuất được tam Hiển Vinh 
Tỵ Hợi bị Nhì Bần Tiện.

*Nam tuổi BÍNH TÂN lấy vợ tuổi 
Tý Ngọ được nhất Phú Quý 
Sửu Mùi bị ngũ Ly Biệt 
Dần Thân được tứ Đạt Đạo 
Mão Dậu được tam Hiển Vinh 
Thìn Tuất bị nhì Bần Tiện 
Tỵ Hợi được nhất Phú Quý. 

*Nam tuổi ĐINH NHÂM lấy vợ tuổi 
Tý Ngọ bị ngũ Ly Biệt 
Sửu Mùi được tứ Đạt Đạo 
Dần Thân được tam Hiển Vinh 
Mão Dậu bị nhì Bần Tiện 
Thìn Tuất được nhất Phú Quý 
Tỵ Hợi bị ngũ Ly Biệt. 

*Nam tuổi MẬU QUÝ lấy vợ tuổi 
Tý Ngọ được tứ Đạt Đạo 
Sửu Mùi được tam Hiển Vinh 
Dần Thân bị nhì Bần Tiện 
Mão Dậu được nhất Phú Quý 
Thìn Tuất bị ngũ Ly Biệt 
Tỵ Hợi được tứ Đạt Đạo.

Đây là những câu phú đã được truyền lại từ xa xưa, trong đó dùng hàng can năm sinh của người nam phối với hàng chi năm sinh của người nữ mà xét đoán để đưa ra các nhận định. Trong đó các trường hợp tốt là Hiển Vinh, Phú Quý, Đạt Đạo, các trường hợp xấu là Ly Biệt, Bần Tiện. Vd nam sinh năm Ất lấy vợ sinh năm Thìn hoặc Tuất thì được Hiển Vinh. Đây cũng là một cách xét đoán khá phổ biến vì ngoài việc nó đưa ra được nhận định tốt hay xấu khi hai người lấy nhau thì các câu phú còn chỉ ra được một cách tương đối cụ thể tình trạng của sự kết hợp đó là gì như Hiển Vinh hay Bần Tiện…
Xét về độ tin cậy của phương pháp này thì sao, tôi có vài ý thế này. Một là dữ liệu đầu vào của phương pháp chỉ dừng lại ở Can năm sinh của nam và chi năm sinh của nữ nên đương nhiên phản ánh sự phù hợp về trường năng lượng của hai người cũng dừng lại ở mức không cao( cũng như đối với các trường hợp trên). Cụ thể xét về mặt thống kê thì trung bình một người nam sinh năm bất kỳ thì sẽ có tới 6 tuổi năm sinh của nữ có thể phù hợp với mình và ngược lại với trường hợp xấu. Như vậy thì cứ 2 triệu người bạn gặp thì sẽ có thể có tới khoảng 1 triệu người phù hợp với bạn. Tỷ lệ phù hợp là 1/2. E rằng tỷ lệ phù hợp là khá cao (Bằng với phương pháp cung phi). Âu cũng có giá trị về mặt nhân sinh quan tốt cho mối quan hệ của con người.
6. Sự khắc hợp của trai gái tính theo can, chi, bản mệnh của năm sinh
Đây là phương pháp dự đoán phối hợp cả 3 cách tính độ phù hợp của hàng can, hàng chi và bản mệnh năm sinh của đôi trai gái. Căn cứ theo các nguyên tắc hợp, khắc của cả 3 yếu tố mà người đoán đưa ra nhận định cuối cùng.
Theo trường phái Luận tuổi Lạc Việt cũng sử dụng cả 3 yếu tố trên để luận tuổi trai gái. Theo đó [4]
Trong tương quan Thiên Can thì chồng phải dưỡng vợ - Dương sinh Âm. Hoặc vợ phải khắc chồng như chồng Ất (Mộc) gặp vợ Tân (Kim); Hay là tương hữu như Bính hợp Tân, nếu Thuận Âm Dương là tốt như chồng Bính vợ Tân. Xấu nhất là Thiên Can vợ sinh chồng.
Trong tương tác Mạng, thì Vợ nên dưỡng chồng . Bởi vậy lấy mạng vợ dưỡng mạng chồng là tốt nhất. Tương quan Địa chi, mang tính đồng đẳng là tốt nhất. Thí dụ: Tam hợp, nhị hợp. Hoặc vợ sinh chồng là tốt nhì…
Phương pháp luận tuổi trai gái dựa vào 3 yếu tố, Can Chi, bản mệnh của nam nữ là một phương pháp khá tổng quát khai thác triệt để những thông tin năng lượng hàm chứa trong dữ liệu năm sinh của hai người. Tuy nhiên năng lượng của con người không chỉ được mã hóa bởi dữ liệu năm sinh mà còn được quy định bởi dữ liệu giờ sinh, ngày sinh và tháng sinh.
7. Sự khắc hợp của trai gái tính theo lá số Tử vi của hai người
Tử Vi là một bộ môn dự đoán tương lai về số phận của từng con người cụ thể và những vấn đề chính liên quan đến cá nhân đó. Để lập một lá số Tử Vi, dữ kiện cần phải có là: giới tính, giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch Đông phương. 
Trên cơ sở dữ kiện đầu vào đó, khoảng hơn 110 đại lượng gọi theo tên những vì sao được sắp xếp vào 12 cung quy ước của lá số, lần lượt có tên gọi như sau: 1. Bản mệnh, 2. Anh em (Huynh đệ), 3. Vợ hoặc chồng (Phu Thê), 4. Con cái (Tử Tức), 5. Tiền Tài (Tài Bạch), 6. Bệnh Tật (Tật ách), 7. Di chuyển (Thiên Di), 8. Quan hệ xã hội (Nô Bộc), 9. Nghề nghiệp chức vụ (Quan Lộc), 10. Đất đai nhà cửa (Điền Trạch), 11. Phúc Đức, 12. Cha mẹ (Phụ Mẫu). Với khoảng hơn 110 vì sao được sắp xếp theo những quy luật nhất định dựa trên dữ kiện mã hóa đầu vào là giờ ngày tháng năm sinh, giới tính thì một lá số trở thành một bảng mật mã siêu công thức (cấp 2) mô tả đặc điểm năng lượng của cá nhân đó trong suốt chu trình sinh lão bệnh tử của một con người xã hội. Như vậy, với mười hai cung của Tử Vi đã mô tả hầu hết những mặt chủ yếu của sự hoạt động và những mối quan hệ gia đình, xã hội của một cá nhân cụ thể, trong đó có mối quan hệ vợ chồng. Với sự mô tả chi tiết cụ thể năng lượng của một cá nhân trên lá số thì việc xem xét sự khắc hợp của trai gái dựa theo lá số tử vi có thể coi là phương pháp toàn diện, đã lấy đầy đủ thông tin năng lượng được mã hóa bởi thời khắc sinh ra của người đó. Việc xem xét đó chủ yếu dựa vào Cung phu thê (cung phối) của hai lá số.
Tử vi cho rằng hai người nam, nữ có duyên vợ chồng với nhau, thông thường lá số của hai người phải hội tụ được hai yếu tố: truyền cung và truyền tinh. [5]
- Truyền cung: tức là cung mệnh của người này trùng với cung phu (thê) hoặc xung chiếu hoặc tam hợp với cung phu (thê) của người còn lại.
Khi hai lá số có truyền cung với nhau là đã đạt được một sự tương hợp đặc biệt giữa hai người nhưng đó không phải là tất cả. Có lẽ vấn đề coi trọng hơn là truyền tinh.
- Truyền tinh (nghĩa là có sự di chuyển của tinh tú từ lá số này sang lá số kia): Lý luận của vấn đề này như sau: trong 12 cung của lá số tử vi thì có một cung gọi là cung Phu/Thê nó cho phép giải đoán các vấn đề liên quan tới người hôn phối và gia đạo của mỗi người. Đương nhiên nó cũng dùng để giải đoán các vận hạn. Thông thường có thể dùng các sao của cung này để đoán về đặc tính người hôn phối. Nếu chính tinh (một số người còn tính cả trung tinh, phụ tinh) ở cung Phu (thê) của người này lại xuất hiện trong cung Mệnh (chiếu, hợp) của người còn lại thì hai lá số đó gọi là truyền tinh với nhau. Việc hội tụ được một trong hai yếu tố trên thì Tử vi nói hai người đó có duyên vợ chồng với nhau. Đồng thời cũng có thể nói hai người này là hợp với nhau, có số là vợ chồng với nhau. Mặc dù vẫn còn phải xét đoán thêm rất nhiều các cát tinh, cũng như hung tinh, bại tinh khác không chỉ ở cung Phối mà còn ở các cung khác như: cung Mệnh, cung Thân, Cung Phúc, cung Nô, Cung Di… để có cái nhìn cụ thể về sự tương hợp này.
Về sự tin cậy của phương pháp, vì một lá số Tử vi được lập ra dựa trên dữ kiện mã hóa đầu vào là giờ ngày tháng năm sinh, giới tính nên một lá số tự nó đã trở thành một bảng mật mã siêu công thức(cấp 2) mô tả khá toàn diện đặc điểm năng lượng của một các nhân riêng biệt cụ thể. Chính vì tính đầy đủ của thông tin dữ liệu đầu vào mà có thể nói rằng việc giải đoán sự khắc hợp của trai gái theo lá số tử vi là một phương pháp toàn diện, cụ thể và chính xác. 
Xét về mặt thống kê thì, mỗi một cá nhân vào thời điểm sinh ra mang cho mình một lá số riêng biệt mặc dù có ước chừng khoảng nửa triệu lá số tất cả theo đó vẫn có tính lặp lại. Nhưng chỉ với ngần đó lá số thôi thì sự phối hợp của nửa triệu lá số đó với nhau tạo ra vô vàn những cặp tương tác khác nhau. Nên hoàn toàn có thể nói rằng sự khắc hợp của trai gái theo lá số tử vi mang đậm tính riêng lẻ, cho từng trường hợp cụ thể, nó không giống như cách xét đoán những phương pháp trên. Bởi nó khắc phục được những hạn chế của những cách giải đoán phía trên chỉ dùng dữ liệu thông tin là năm sinh để kết luận. Ví dụ, tôi tuổi Sửu lẽ nào tôi lại không hợp với tất cả những người sinh năm Mùi ( theo quan điểm Sửu Mùi tương xung). Nhưng xét theo Tử vi thì những người sinh năm Sửu còn có những đại lượng mã hóa năng lượng khác là giờ, ngày, tháng. Bởi thế cho nên muốn xem xét được một cách toàn diện sự khắc hợp của trai gái thì phương pháp xét đoán đó phải có đủ tính phổ quát hơn cả, bao hàm được toàn bộ đặc tính năng lượng của các nhân đó, ít nhất cũng là năng lượng định hình ở thời điểm sinh ra.
8. Cách xem xét sự khắc hợp của trai gái bằng cách xem xét cụ thể trường năng lượng
Tất các phương pháp có tính chất gần giống nhau tôi xếp chung vào cùng một loại, với bản chất là bằng một cách nào đó mà thông tin là sự tương hợp năng lượng của hai người được lộ ra. Trong đó một số phương pháp được sử dụng như:
- Phương pháp cảm xạ:
Là một phương pháp ứng dụng khả năng cảm nhận các dòng năng lượng của cơ thể con người để từ đó lấy được những thông tin cần thiết. Thường những thông tin đó được mã hóa thông qua chuyển động của con lắc cảm xạ, đũa cảm xạ… [PTG]. Trên cơ sở đó khi xem xét sự khắc hợp của hai người, nhà cảm xạ sẽ nắm bắt được sự tương hợp một cách cụ thể thông qua sự chuyển động của con lắc…Để có thể có được thông tin chi tiết, cụ thể về sự tương hợp này thì nhà cảm xạ hoàn toàn có thể lập cảm xạ đồ, với cách hình thái tương tác khác nhau. VD, rất khắc, khắc vừa, khắc, hợp, hợp nhiều, rất hợp...
- Phương pháp gieo quẻ dịch:
Là một phương pháp bói toán được ứng dụng từ rất lâu đời, mà bằng cách nào đó mà những thông tin tiên tri được lấy và biểu thị qua các quẻ của bát quái. Các cách lập quẻ cũng rất nhiều nhưng phổ biến thường là gieo quẻ bằng đồng tiền cổ và gieo quẻ theo thời gian. Khi xem xét sự khắc hợp của trai gái theo phương pháp gieo quẻ dịch thì thông tin về sự khắc hợp đó sẽ được biểu thị rõ qua tính chất của quẻ gieo được. VD gieo quẻ theo thời gian thì ngay lập tức định được quẻ thượng và quẻ hạ, định được hào động để phân chia quẻ thể, quẻ dụng, quẻ biến, tùy theo tính chất tương sinh, tương khắc của quẻ thể, quẻ dụng mà đoán sự khắc hợp của trai gái, tùy theo tính chất của quẻ biến mà đoán diễn biến của sự khắc hợp.
- Phương pháp kiểm tra trực tiếp năng lượng của hai người
Là một phương pháp cao cấp, mà trong đó sự đáo đạt thông tin được thực hiện bằng những cách thức đặc biệt. Ví dụ, những người khai mở được con mắt thứ 3 (thiên nhãn) có khả năng lấy được thông tin về sự tương hợp năng lượng của hai người, từ đó có thể đưa ra những dự đoán về sự khắc hợp của trai gái (hoặc hai người bất kỳ), hoặc những người có khả năng giao tiếp với những vị có khả năng (quyền năng) trong không gian (tâm linh) những vị đó (trong không gian) có thể đưa ra những lời nhận xét cụ thể về sự tương hợp của trường năng lượng hai người. Giúp đưa ra được những cái nhìn chính xác khách quan.
Đặc điểm chung của phương pháp này là xem xét được một cách trực tiếp khả năng tương hợp năng lượng của hai người cụ thể (đương nhiên không chỉ có ứng dụng trong việc khắc hợp của vợ chồng), giảm thiểu được tính đại trà, thông tin lấy được mang tính cá nhân dị biệt.

Như vậy có thể nói vấn đề tương hợp, xung khắc của vợ chồng chính là vấn đề mang bản chất là tương tác trường năng lượng giữa hai người. Mà trường năng lượng ấy được mã hóa bằng các siêu ký hiệu và siêu công thức được dùng trong các bộ môn dự đoán số mệnh con người. Hoặc cũng có thể năng lượng ấy được đáo đạt bằng một cách đặc biệt nào đó. Do vậy tôi quan điểm cá nhân của tôi về vấn đề xem xét sự khắc hợp của trai gái, nếu cần phải thực hiện thì nên sự dụng các phương pháp có độ chính xác cao, nếu chỉ dừng ở các phương pháp xét đoán dựa theo năm sinh thì kết luận đưa ra rất bấp bênh độ chính xác hạn chế. Vì vậy các bạn yêu nhau đừng nên đặt nặng vấn đề tuổi tác nhiều quá, cứ thuận theo tự nhiên yêu nhau tự cảm thấy hợp thì hoàn toàn có thể tiến tới hôn nhân Tại sao tôi lại nói như vậy? Có lẽ tôi sẽ trình bày trong một tiểu luận khác về bản chất số mệnh con người. 
Kết luận.
Qua bài viết này, tôi muốn giới thiệu với các bạn về một cách nhìn tổng thế về vấn đề sự khắc hợp của đôi lứa dưới nhãn quan năng lượng (đương nhiên cũng có thể ứng dụng cho các mối quan hệ nhân sinh khác). Bài viết có tham vọng là giải thích được bản chất của vấn đề khắc hợp giữa hai cá nhân cụ thể theo quan điểm năng lượng. Mà ở đó, xét cho cùng thì sự khắc hợp của hai người chính là sự phù hợp của hai trường năng lượng của hai cá nhân đó. Mà trường năng lượng này có thể được ghi lại bởi thời điểm người đó sinh ra và được mã hóa lại bằng các siêu công thức, siêu ký hiệu-đó là 10 thiên can và 12 địa chi của lý học phương đông. Hoặc trường năng lượng đó có thể được biết đến thông qua các phương pháp đặc biệt khác…
Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi về vấn đề khắc hợp của trai gái với nhãn quan năng lượng. Tôi biết là còn rất nhiều cách nhìn nhận khác về vấn đề này. Trình độ lý học, cũng như các bộ môn khác của tôi rất nông cạn, những thuật ngữ cũng có thể có nhiều chỗ chưa đúng, nếu sai cũng mong mọi người chiếu cố, bỏ qua cho. Cũng rất mong được sự tiếp nhận, góp ý của các vị, các bạn trên tinh thần xây dựng, cầu sự tiến bộ, với tinh thần cốt lõi của bài viết là xoay xung quanh vấn đề dùng quan điểm năng lượng để giải thích mối tương tác quan hệ các cá nhân trong xã hội. Chân thành cảm ơn các bạn đã quan tâm.
Phong Thủy Gia kính bút. 
Tài liệu tham khảo 
[1], Nguyễn Phát Lộc, Tử vi thực hành, Khoa học Nhân văn, năm Nhâm Tý.
[2], Tuệ Duyên, Kiến thức nhà ở theo phong tục dân gian, Nhà xuất bản Hải Phòng, 2003.
[3], Thiệu Vĩ Hoa, Chu Dịch với dự đoán học, Nhà xuất bản văn hóa, 1998.
[4], Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Tiểu luận Luận Tuổi Lạc Việt, diễn đàn Lý học phương Đông.

[5], Cùng tác giả, tham luận duyên vợ chồng theo quan điểm Tử Vi.
Read more…

Khí Công Tâm Linh- Hướng dẫn luyện tập dành cho người mới

03:22 |

Tôi được biết là có nhiều bạn muốn học khí công, học thiền. Nhưng số đông đều cảm thấy có nhiều khó khăn mà không dám bước vào luyện tập, hoặc đã bắt đầu tập rồi nhưng vẫn còn băn khoăn không biết mình đã tập đúng chưa. Những câu hỏi hay đặt ra là: Tư thế tập thế nào ? Giờ nào tập thì tốt ? Nếu có suy nghĩ lung tung khi ngồi tập thì phải làm sao ? Tập thiền môn này trong khi trước đây đã học các môn khác thì có được không ?…Xuất phát từ những điều đó, tôi viết bài này với mong muốn giới thiệu một cách ngắn gọn cho một người mới bắt đầu tập luyện môn "khí công tâm linh", những kiến thức cơ bản ban đầu, để có thể tiến hành vào luyện tập ngay mà chưa cần quan tâm nhiều đến những vấn đề lý luận sâu hơn đằng sau. Vì là bài viết dành cho người mới nên sẽ có một số điều mà nhiều bạn đã biết rồi.
Để có một cái nhìn tổng quan ban đầu, tôi xin nói một chút về khí công, phần sau sẽ nói về những chú ý cần biết cho việc bước vào luyện tập.

1. Khí công là gì?
Khí ở đây không đồng nhất với không khí mà ta hít thở hàng ngày. Mà khí ở đây được hiểu là một dạng năng lượng tồn tại trong vũ trụ có thể biểu hiện ở nhiều dạng, nhiều trạng thái khác nhau. Khí ở đây có tên là " Năng lượng bức xạ sinh học" hay " Năng lượng Vũ trụ "
Công ở đây là công phu, công pháp, là một thuật, một phương pháp…
Như vậy có thể hiểu khí công là công phu vận hành khí. Đó là một thuật rèn luyện đồng thời cả tinh thần và thể chất. Nhiều người còn đồng nhất khí công là một phương pháp rèn luyện, phục hồi, nâng cao sức khỏe; khí công là một phương pháp chữa bệnh; khí công là một phương pháp dưỡng sinh, là một phương pháp luyện tập trong võ thuật, là phương pháp giữ gìn tuổi thanh xuân; là con đường để khai tâm mở huệ, kích phát các tiềm năng, công năng đặc biệt của con người…Theo tôi khí công bao hàm tất cả các ý nghĩa trên. Qua đây các bạn có thể phần nào hiểu về ý nghĩa tác dụng của việc luyện tập khí công.

2. Khí công tâm linh là gì?
KCTL là một con đường luyện tập khí công với nền tảng là “tĩnh công ý thức” (ngồi thiền chủ động) đồng thời có sự hỗ trợ trực tiếp và rất hiệu quả của lực lượng chính đạo thuộc " Thế giới Tâm linh ".

3. Một số điều bạn cần biết để bắt đầu luyện tập.
Tôi xin đưa ra một số điểm chính mà nhiều người mới học thiền hay có thắc mắc.

Về tư thế:
Vì là bộ môn ngồi thiền nên bạn cần phải ngồi (với một vài trường hợp cá biệt về tuổi tác hay đang ốm nặng thì có thể ngồi ghế hay nằm) Tuy nhiên để đạt hiểu quả tốt nhất thì lời khuyên chân thành là bạn nên ngồi cho đúng. Bạn có thể ngồi xếp bằng, ngồi ở tư thế bán già (một chân này để lên đùi chân kia), hay ngồi kiết già (chân này để lên đùi chân kia). Với những người tương đối trẻ tuổi thì nên ngồi kiết già hay bán già thì sẽ tốt hơn. Bạn cũng có thể ngồi trên một tấm nệm nhưng đừng quá dày và quá êm. Trong cả ba tư thế đó thì yêu cầu chung là lưng thẳng, cổ thẳng, thả lỏng toàn bộ cơ thể. Bạn phải đảm bảo chắn chắn rằng tất cả các cơ có thể thả lỏng đều được thả lỏng, thả lỏng bằng ý thức của mình. 
Sau khi bạn đã ổn định ở một tư thế đã chọn với sự thả lỏng toàn thân. Bạn hãy nhẹ nhàng nhắm mắt lại, hai tay để ngửa đặt trên đầu gồi với ngón trỏ chạm nhẹ vào ngón cái, các ngón còn lại duỗi thằng (kết ấn vô minh), khi đó lưỡi hơi để chạm nhẹ vào vòm miệng phần chân răng hàm trên (cứ ngậm miệng lại là được rồi), hơi thở tự nhiên, nhẹ nhàng và đừng cố gắng dẫn dắt hơi thở theo một lộ trình nào cả, hãy để nó thật tự nhiên, thật thoải mái. Cuối cùng một lần nữa bạn dùng ý thức của mình kiểm tra, dò lại tất cả những điều trên xem đã đúng chưa. Nếu đã xong chúng ta có thể bật bài luyện của Thầy và tập luyện.

Về tư tưởng trong quá trình luyện tập.
Một số người mới bắt đầu sợ rằng: Khi thiền cần phải vô thức, đầu óc không được nghĩ gì nhưng để làm được điều đó thì rất khó nên đã không dám tập hoặc không đủ kiên trì để bắt đầu tập. Đúng là thiền thì cần phải buông bỏ suy nghĩ, buông bỏ tạp niệm. Tuy nhiên với người mới học Thiền thì điều đó gần như là không thể. Cứ kiên trì một thời gian với tâm niệm: những suy nghĩ lung tung cần phải được loại bỏ, chúng ta sẽ làm được. 
Có hai trạng thái tư tưởng mà người tập có thể sử dụng khi luyện các bài tập là: trạng thái quán tưởng theo nội dung bài tập và trạng thái nhập tĩnh. Vì các bạn đều là những người mới nên tôi sẽ nói rõ về trạng thái quán tưởng theo nội dung bài tập. Tức là khi nghe thấy các lời hô các lệnh trong bài thì bạn cần quán tưởng, mường tượng ra những cảnh đó, vật đó trong suy nghĩ của mình. VD khi Thầy hô “ từ trên rất cao vòng thanh khí chân dương xoay theo chiều thiên chuyển xoáy thẳng xuống đỉnh đầu Bách Hội. Khi đó bạn chỉ cần nghĩ rằng có một vòng xoáy khí quay ở trên cao xoáy vào đỉnh đầu…
Một số thuật ngữ trong các bài tập mà bạn nên nắm được:
Thiên cung là vùng không gian trên đỉnh đầu
Địa cung là vùng dưới chỗ ngồi
Bách hội: một huyệt ở chính giữa trên đỉnh đầu
Mạch Nhâm: mạch chạy dưới da phía trước cơ thể
Mạch Đốc: mạch chạy phía sau cơ thể
Trục sinh lực: ống nối từ đỉnh đầu Bách hội, nằm chính giữa cơ thể xuống thẳng Hội âm.
Chiều thiên chuyển: chiều vặn nút chai xoáy vào đỉnh đầu xuống dưới
Chiều địa chuyển: chiều vặn nút chai xoáy từ dưới chỗ ngồi lên trên…
Dưới đây là hình ảnh các huyệt đạo quan trọng:


Xin lưu ý thêm một chút: ở giai đoạn đầu, khi các bạn tự luyện tập, cũng là giai đoạn bạn đang được môn pháp " Khí công Tâm linh " khai tâm mở huệ và phần thực thể thì đang được chữa bệnh và làm sạch. Vì là một người mới nên trong giai đoạn này các bạn chưa cần lưu ý đến hơi thở của mình, mặc dù bạn có thể quán tưởng theo nội dung bài tập nhưng bạn cũng chưa cần phải hiểu hết ý nghĩa những lời dẫn luyện đó. Một các đơn giản, các bạn chỉ cần làm một việc duy nhất là :NGỒI ĐÚNG TƯ THẾ - KIÊN TRÌ LUYỆN TẬP - TẬP TRUNG CẢM NHẬN SỰ THAY ĐỔI TRONG CƠ THỂ CỦA MÌNH.

Về cảm giác trong khi luyện tập.
Các bạn mới tập cũng đừng nên truy cầu nhiều quá về các cảm giác. Cứ để chúng xuất hiện thật tự nhiên và bạn hãy hoan hỉ ghi nhận chúng lại. Các cảm giác có thể gặp trong khi luyện: tê, mỏi, nóng, lạnh, mát, rung động, co giật, xoay đảo…có thể một vài người thấy có ánh sáng, hình ảnh, ngửi thấy mùi vị, nghe thấy âm thanh…tất cả đều rất bình thường cứ tiếp tục chuyên chú luyện tập. Có một số bạn cũng chia sẻ rằng không có cảm nhận gì hoặc rất ít, yên tâm bạn nằm trong số 30 – 35% người có cơ địa ít nhạy cảm, còn những người có cơ địa nhạy cảm, có thể nhận biết tín hiệu ngay cũng không nhiều hơn 30% đâu. Nhưng sau một vài tháng luyện tập cảm nhận về khí nhất định sẽ xuất hiện với hầu hết những người đã tham gia luyện tập môn này. Với tôi một cách thiết thực nhất là bạn hãy tự kiểm chứng lại tình trạng sức khỏe, trạng thái tâm lý của mình đã được cải thiện ở mức độ nào. Đó mới chính là điều đáng quan tâm nhất.
Nếu có hiện tượng lạ xảy ra trong khi luyện tập thì các bạn có thể tạm dừng rồi sau đó lại luyện tập tiếp. Môn học này hoàn toàn không gây ra một điều gì bất lợi cho người tập.

Về thời gian, phương hướng luyện tập
Hầu hết các bạn đều rất bận rộn với các công việc của mình thế nên hãy tập bất cứ khi nào bạn rảnh. Ít nhất một lần trong ngày, có thể là buổi sáng, buổi trưa, buổi tối…đều được cả. Mỗi bài luyện kéo dài khoảng 40-50 phút, bạn hãy đảm bảo cho đủ quỹ thời gian để hoàn thành bài tập. Thật là tốt nếu bạn có thể tìm cho mình một chỗ thoáng đãng, mát mẻ, ít người làm phiền để bắt đầu một bài tập, trong phòng ngủ cũng được, ngoài ban công, công viên, vườn hoa…đều được cả. 
Có một số người còn thắc mắc về phương hướng ngồi thiền. Có lý thuyết cho rằng: buổi sáng thì quay mặt về hướng Đông, trưa là hướng Nam, chiều là hướng Tây, tối là hướng Bắc. Được như vậy cũng rất tốt. Tuy nhiên bạn cũng có thể tự tìm cho mình một hướng ngồi, cả vị trí ngồi nữa mà bạn cảm thấy có hiệu quả nhất.

Chắc chắn nhiều bạn sẽ có vài vấn đề thắc mắc, các bạn có thể gửi câu hỏi trực tiếp lên diễn đàn chúng ta cùng trao đổi thêm hoặc bạn cũng có thể tham khảo các chủ đề có liên quan tương tự trong diễn đàn.
Lời cuối xin chúc các bạn thành công.

Phần dưới là link để tải các bài luyện căn bản của bộ môn Khí Công Tâm Linh. Các bạn có thể tải và luyện tập theo thứ tự các bài luyện được đánh số từ nhỏ tới lớn.

1. Bài Thanh Khí Khai tâm http://www.mediafire.com/?5aqb5kb11qyjd5u
3. Bài luyện trí (não) http://www.mediafire.com/?0sk389cbbzcny8w
4. Bài luyện Phế (phổi): http://www.mediafire.com/?gcoguyf88pxsqyw
6. Bài luyện Luyện Tỳ http://www.mediafire.com/?aaocrd3n7oozc3f

Read more…

Giới Thiệu Về Bộ Môn Khí Công Tâm Linh

03:19 |
Là bộ môn khí công được sáng lập bởi khí công sư, thiền sư Nhật Nguyệt Tuệ Tâm, Khí công Tâm linh là một công pháp rèn luyện đồng thời cả thân và tâm giúp người học có thể cải thiện sức khỏe, đầy lùi bệnh tật, nâng cao nghị lực trí lực, trau dồi đạo đức, lối sống cho con người....

Một số bài viết dưới đây được đăng tải trên trang chủ tukhicongdentamlinh.net và tôi sao chép lưu trữ tại blog này. Mọi thắc mắc liên quan tới quá trình luyện tập các bạn có thể chia sẻ hỏi đáp trực tiếp tại diễn đàn của trang chủ.
Read more…

Trường Phái Phong Thủy (Phần Kết)

03:17 |

C. Trường phái Dương Trạch Tam Yếu
Là phương pháp phong thủy xem xét sự ảnh hưởng của cấu trúc không gian bên trong của ngôi nhà với năng lượng của chính nó. Mà bản chất tác động ở đây có lẽ là tương tác năng lượng của từng bộ phận cấu thành ngôi nhà lên năng lượng tổng thể ngôi nhà đó.
Trường phái này đánh giá cát hung của một ngôi nhà chủ yếu qua mối quan hệ về vị trí của 3 đối tượng là: cửa chính, phòng chính và bếp (với nhà 1 ngăn) hoặc cửa chính, sơn chủ- lưng nhà và bếp (đối với nhà nhiều ngăn). Ngoài ra còn xem xét thêm các yếu tố về vị trí khác như, cửa phòng, cửa bếp, hướng bếp...
Theo đó với ngôi nhà có 1 ngăn, nếu 3 đối tượng: cửa chính, phòng chính và bếp đều nằm trong vòng 4 cung là Khảm Ly Chấn Tốn (Đông cung)- nhà Đông trạch dùng bếp Đông trù; hoặc cùng nằm trong 4 cung Càn Khôn Cấn Đoài ( Tây cung)- nhà Tây trạch dùng bếp Tây trù, thì được coi là tốt nhất.
Tương tự như vậy, với ngôi nhà có nhiều ngăn, nếu 3 đối tượng: cửa chính, lưng nhà và bếp đều nằm trong vòng 4 cung là Khảm Ly Chấn Tốn (Đông cung) hoặc cùng nằm trong 4 cung Càn Khôn Cấn Đoài (Tây cung) thì được coi là tốt nhất. Ngoài ra với nhà nhiều ngăn còn sử dụng kỹ thuật phiên tinh để tìm ra những vị trí phòng tốt nhất cải tạo hay xây dựng phòng này thành phòng to và rộng nhất nhằm tăng uy lực tốt đẹp, hoặc chấn áp được sự suy bại.
Về cơ bản phái này không coi trọng mệnh của chủ nhà như phái Bát Trạch. Tuy nhiên cũng có nhắc tới nếu người Đông mệnh mà ở nhà Đông Trạch… thì tốt thêm nếu không chỉ giảm tốt chứ không xấu đi.

Hình 4: Cấu trúc không gian ngôi nhà-nội dung chủ yếu của trường phái Dương Trạch Tam Yếu.
Trong trường phái Dương Trạch Tam Yếu mỗi phần cấu thành lên ngôi nhà được coi như một vật thể sống, chúng bị ảnh hưởng bởi năng lượng phương hướng và rồi lại tương tác năng lượng qua lại lẫn nhau. Nếu sự tương tác này là đồng bộ, cùng dạng thì đem đến một môi trường năng lượng tốt cho ngôi nhà. Còn không thì gây ra những xáo trộn trường năng lượng của ngôi nhà, tạo ảnh hưởng xấu tới người ở trong căn nhà đó.
Như vậy có thể thấy rằng, sự tốt xấu của ngôi nhà, theo trường phái Dương Trạch Tam Yếu phụ thuộc phần lớn vào việc bố trí các bộ phận chính của ngôi nhà có phù hợp với nhau hay không. Tức là tương tác năng lượng của chính cấu trúc không gian bên trong ngôi nhà đã tạo ra họa phúc cho ngôi nhà đó...
( Hết phần 2)

D. Trường phái Huyền Không Phi Tinh.
Là phương pháp phong thủy xem xét sự ảnh hưởng của các dòng năng lượng đến từ vũ trụ đến năng lượng của ngôi nhà. Bản chất tác động ở đây có lẽ chính là tương tác của năng lượng vũ trụ trong đó có các hành tinh trong thái dương hệ, đến năng lượng của ngôi nhà vào thời điểm nhập trạch của ngôi nhà đó.
Trong trường phái Huyền Không sử dụng 9 ngôi sao (cửu tinh) hay 9 con số và đường di chuyển của chúng trên quỹ đạo mang tên Lượng Thiên Xích, để bố trí thành tinh bàn của một ngôi nhà từ đó luận cát hung cho ngôi nhà, trong mối tương quan với cảnh quan bên trong và bên ngoài ngôi nhà.
Hai đối tượng chính được sử dụng trong trường phái này chính là Cửu tinh (9 ngôi sao hay 9 con số) và quỹ đạo di chuyển của cửu tinh mang tên Lượng Thiên Xích. 
Cửu tinh gồm có:
Số 1 còn được gọi là sao Nhất Bạch hoặc Tham Lang; Số 2 còn được gọi là sao Nhị

Hắc hoặc Cự Môn; Số 3 còn được gọi là sao Tam Bích hay Lộc Tồn; Số 4 còn được gọi là sao Tứ Lục hoặc Văn Xương; Số 5 còn được gọi là sao Ngũ Hoàng; Số 6: còn được gọi là sao Lục Bạch hay Vũ Khúc; Số 7 còn được gọi là sao Thất Xích hoặc Phá Quân; Số 8 còn được gọi là sao Bát Bạch hoặc Tả Phù; Số 9 còn gọi là sao Cửu Tử hoặc Hữu Bật.
Lượng Thiên Xích:
Còn được gọi là "Cửu tinh đãng quái” là thứ tự di chuyển của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái. Gọi là Lượng thiên xích vì đây được coi như là 1 công cụ (Xích: cây thước) để đo lường (lượng) thiên vận (thiên). Nói cách khác "Lượng thiên Xích” chính là phương pháp tính toán để tìm thấy những giai đoạn cát, hung, họa phúc cho dương trạch và âm trạch. 
Còn sự di chuyển của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên xích là dựa theo thứ tự số trong Hậu thiên Bát quái, bắt đầu tăng từ số 5 đến 6, 7…trở về 5. Đây gọi là di chuyển theo vòng thuận. Còn vòng nghịch là giảm từ 5 xuống 4, 3…rồi trở về 5.

Hình: Hậu thiên bát quái phối độ số phương hướng.
Trên hai cơ sở chính này, đồng thời thêm vào hướng, tọa của ngôi nhà và thời điểm nhập trạch người ta lập ra được một tinh bàn hay trạch vận cho ngôi nhà đó: 
Link ảnh: Tinh bàn nhà nhập trạch trong vận 8 hướng Nam tọa Bắchttp://i1198.photobucket.com/albums/...f9ec2d6179.jpg
Trên cơ sở tinh bàn và đương vận, phong thủy gia sẽ tìm ra những khu vực vượng, sinh, suy, tử khí của ngôi nhà. Kết hợp với yếu tố cảnh quan bên trong và bên ngoài ngôi nhà để định ra những cấu trúc phù hợp hoặc luận giải cát hung cho ngôi nhà hoặc đưa ra những cải tạo bổ sung cho ngôi nhà...
Có thể thấy rằng theo trường phái Huyền Không Phi Tinh, sự tốt xấu của ngôi nhà phụ thuộc vào các yếu tố chính là: thời điểm nhập trạch hướng nhà, tọa nhà, sự thay đổi thời gian qua các vận, ngoài ra còn có đề cao sự phù hợp của cảnh quan bên trong, bên ngoài ngôi nhà với sự suy vượng của Cửu tinh. Với sự tham gia của yếu tố thời gian, ngôi nhà trong Huyền không phi tinh được gắn cho mình một hình ảnh động, sự tốt xấu của ngôi nhà không phải là cố định mà thay đổi theo từng vận, từng thời khắc. Điều này khác hẳn với ngôi nhà dưới con mắt của trường phái Loan Đầu, Bát Trạch hay Dương Trạch tam yếu- nơi ngôi nhà luôn định hình cho mình sự tốt xấu tương đối ổn định. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi tương tác của các dòng năng lượng trong vũ trụ- luôn mang trong mình sự luân chuyển theo thời gian.
E. Trường phái phong thủy Trấn yểm và Tâm linh.
Là phương pháp phong thủy sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, dụng cụ có khả năng tác động năng lượng trực tiếp tới ngôi nhà hoặc con người sinh sống trong ngôi nhà đó. Các biện pháp, kỹ thuật, dụng cụ được sử dụng có thể ở dạng hữu hình (giác quan thông thường có thể nhận biết được) hoặc ở dạng vô hình (với giác quan thông thường). Bản chất tương tác năng lượng ở đây chính là sự tác động trực tiếp của các dòng năng lượng được tạo ra bởi các biện pháp, kỹ thuật, dụng cụ trấn yểm hoặc từ chính khả năng, quyền năng của Thầy phong thủy đối với ngôi nhà hoặc con người trong ngôi nhà.
Để duy trì hoặc tạo ra một môi trường tác động năng lượng lên ngôi nhà hoặc một bộ phần cục bộ của ngôi nhà, các phong thủy gia có thể sử dụng một hoặc nhiều biện pháp trấn yểm khác nhau. Trong đó một số kỹ thuật thường được sử dụng như:
Trấn: là kỹ thuật nhằm duy trì trường năng lượng tốt trong một khu vực với phạm vi tác động trên diện rộng.
Án: là kỹ thuật nhằm duy trì trường năng lượng tốt trong một khu vực với pham vi tác động trên diện hẹp hơn.. 
Yểm: là kỹ thuật để tránh sự xâm nhập của khí xấu, năng lượng xấu vào một khu vực.
Ngoài ra còn một kỹ thuật được sử dụng trong trấn yểm gọi là thu khí: có tác dụng thu hút những năng lượng ở xung quanh về khu vực định trước.
Có thể hiểu: Trấn yểm là một chuỗi các kỹ thuật có mục đích khác nhau nhằm tác động trực tiếp đến trường năng lượng (khí) của một ngôi nhà hoặc khu vực.
Thông thường khi thực hiện được các kỹ thuật này cần phải có các dụng cụ hoặc đồ vật để: phát ra trường năng lượng mạnh bao trùm khu vực cần trấn yểm, hoặc tạo ra rào cản năng lượng ngăn cách khu vực trấn yểm với xung quanh, hoặc có khả năng định dạng năng lượng (tạo năng lượng có tính chất đặc thù), hoặc định hướng năng lượng ở một khu vực… 
Những vật đó gọi chung là nguồn phát (nguồn thu), hoặc pháp khí phong thủy. Nguồn phát (thu) có thể là bùa (phù), các vật có mức năng lượng cao như: các loại đá thạch anh…, và các dụng cụ phong thủy khác. Ngoài ra để tăng cường thêm cường độ, thời gian cũng như không gian tác động năng lượng, trong kỹ thuật trấn yếm, các phong thủy sư có thể lập trận, bày trận trên khu vực cần trấn yểm.
Trong phong thủy Trấn yểm và Tâm linh, thì phần phong thủy Tâm linh có thể nói là một trong những phần huyền bí bậc nhất của phong thủy, ngoài khả năng dùng các biện pháp tác động trực tiếp tới trường khí của khu vực, người thầy phong thủy còn có khả năng giải quyết được các vấn đề thuộc thế giới vô hình (vong, cốt, các hình thái tạo năng lượng xấu…) đang tác động tới con người hoặc khu đất. Khả năng đó phụ thuộc chủ yếu vào công năng, quyền năng của phong thủy sư.

Hình: Hòn non bộ- có thể coi là một vật dụng trong trấn yểm phong thủy

LỜI KẾT
Đến giờ vẫn còn rất nhiều những quy luật khách quan tồn tại ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Còn rất nhiều những hình thái tương tác tác nằm ngoài khả năng cảm nhận của con người. Nhưng bằng một các nào đó, bằng một con đường nào đó, mà những quy luật, những hình thái tương tác vẫn đã, đang và sẽ thể hiện sự tồn tại của chúng, trong đó có phong thủy. Rất có thể vào thời điểm khởi nguyên, Phong thủy được sinh ra từ một hệ thống lý luận thống nhất, hoàn chỉnh. Qua thời gian, giờ đây nó chỉ còn lại những mảnh vụn chắp vá rời rạc, thể hiện là những trường phái Phong thủy- tuy nhiều nhưng thiếu sự thống nhất như hiện nay.
Sự nhìn nhận phong thủy dưới góc độ là sự tương tác của các dòng năng lượng tới ngôi nhà, khu đất, cho mọi người cái nhìn tổng quan hơn về bản chất các trường phái phong thủy. Để rồi từ đó có thể hiểu rằng Phong thủy không phải chỉ là xem xét cảnh quan xung quanh, phương hướng, bố trí phòng ốc, thời vận, trấn yểm của ngôi nhà…mà là tổng hòa của tất cả các yếu tố đó. Tựu chung đó chính là sự tổng hòa các tương tác của những dòng năng lượng vốn hiện hữu xung quanh chúng ta. Chung quy, có thể nói, xem xét Phong thủy của một đối tượng chính là xem xét mức năng lượng hay trường khí của đối tượng đó và sự ảnh hưởng của chúng tới con người trong mối quan hệ hữu cơ con người và tự nhiên…
Có nắm bắt được những quy luật thì con người mới có thể vận dụng, cải tạo làm cho cuộc sống của mình ngày càng hoàn thiện, ngày càng tốt lên. Đó không chỉ là mong ước của…mà còn là mong ước của…
( Bài hoàn chỉnh )
Tài liệu tham khảo:
1. Tả Ao, Dịch giả Cao Trung: Tả Ao Địa Lý Toàn thư, nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, 2010.
2. Thái Kim Oanh: Kim Oanh Ký, nhà xuất bản Lao Động, 2008.
3. Triệu Cửu Phong: Dương Trạch Tam Yếu, diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn.
4. Bình Quân Nguyên: Phong Thủy Huyền Không Học, nhà xuất bản Văn Hiến, 2008.
5. Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, tái bản 2002.

6. Và các nguồn thông tin tham khảo khác từ mạng internet…
Read more…