Lược sử Thiền tông Việt Nam
Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018
Lời giới thiệu: Là một thiền sinh của đạo Phật có nên chăng chúng ta cũng cần biết, cần hiểu về lịch sử thiền tông, về cội nguồn của con đường tu tập, đặc biệt là về thiền phái mà mình đang theo học. Để từ đó có một cái nhìn, một nền tảng toàn diện hơn, thấu hiểu hơn về con đường mình đã chọn. Bài viết cố gắng mô tả lại một cách ngắn gọn, súc tích nhất về dòng chảy lịch sử của thiền tông Phật giáo Việt Nam qua đời các vị tổ. Trân trọng giới thiệu!
Thiền tông là một trong nhiều pháp môn tu tập của Phật giáo, con đường giúp con người đi đến sự giải thoát tối hậu bằng cách thấu hiểu trực diện bản chất sự vật. Vị khai tổ của pháp môn này chính là Đức phật Thích ca Mâu ni.
Các kinh sách, giáo lý căn bản của thiền tông hay được nhắc đến là: Kinh Lăng già do Tổ Bồ đề Đạt Ma truyền, Tổ Huệ Năng giảng kinh Kim cang. Bộ Pháp Bảo Đàn Kinh tông chỉ thiền Vô Niệm do tổ Huệ Năng khởi xướng, sách Định Pháp Vô Minh bí quyết của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử…
Tông chỉ: Bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.
Theo các tích truyền lại rằng: Thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, một hôm, đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật, cầm một cành hoa đưa lên giữa chúng hội và không nói gì cả. Đại chúng đều ngơ ngác, phân vân không hiểu, chỉ duy nhất có ngài Ma ha Ca diếp mỉm miệng cười. Khi ấy, đức Phật dạy: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, nay truyền lại cho Ma ha Ca diếp.” Từ đó, ngài Ca diếp nhận lãnh truyền thừa, trở thành tổ thứ nhất của Thiền tông Ấn Độ. Sau đó thiền tông Ấn Độ truyền đến đời thứ 28, lúc này là tổ Bồ Đề Đạt Ma.
1. Lược sử thiền tông Trung Hoa
Trước khi tổ Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa thì đạo Phật đã du nhập vào đất nước này và phát triển rộng rãi, trong đó có thiền tông. Tuy nhiên, do vấn đề thời gian quá xa, các sách ghi lại không nhiều, mặt khác thiền tông Trung Hoa lại phát triển rực rỡ kể từ khi Tổ Đạt Ma sang truyền giáo, nên lịch sử thiền tông Trung Hoa được chú trọng từ sau thời điểm xuất hiện Tổ Đạt Ma.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa năm 520, có đến gặp vua Lương Võ Đế, nhưng thấy căn khí nhà vua không hợp, ngài lên núi Tung Sơn, vào một hang động ngồi yên lặng trong chín năm. Trong thời gian này có một vị tăng tên Thần Quang tìm đến thọ pháp. Tổ khai ngộ cho Thần Quang, và đổi tên thành Huệ Khả. Về sau, Tổ Bồ đề Đạt ma truyền y bát cho Huệ Khả làm Nhị tổ.
Các đời tổ sư tiếp theo là Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Lục tổ Huệ Năng. Đến đời Lục tổ, thiền tông Trung Hoa phát triển rực rỡ, kinh sách truyền lại cho hậu thế tới nay cốt tủy là bộ Kinh Pháp bảo đàn- kim chỉ nam cho tất cả những người tu thiền đốn ngộ, hay Vô Niệm thiền.
Từ thời tổ Huệ Năng trở về sau, Thiền tông Trung Hoa chia ra làm hai phái Nam tông và Bắc tông. Nam tông do ngài Huệ Năng khởi xướng chủ trương pháp thiền đốn ngộ. Bắc tông theo pháp thiền tiệm ngộ, do Đại sư Thần Tú dẫn dắt. Thiền Nam tông do ngài Huệ Năng truyền lại sau này hình thành lên năm phái lớn gồm có các tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.
2. Lược sử thiền tông Việt Nam
Lịch sử thiền tông Việt Nam khởi nguồn rất sớm từ thế kỷ thứ nhất, qua sự truyền bá trực tiếp của các nhà sư Ấn Độ theo con đường giao thương. Đến thế kỷ thứ 2, 3 nhiều chùa chiền đã được xây dựng ở Giao Châu, theo đó kinh điển, giáo lý nhà Phật cũng được dịch ra hán ngữ và phổ biến rộng rãi trong tầng lớp tu sĩ. Người đáng chú ý nhất trong công cuộc truyền bá đạo Phật (trong đó có thiền tông) vào Việt Nam ở giai đoạn này là Đại sư Khương Tăng Hội.
Rất đáng tiếc là, do thời gian quá dài nên hiện tại chưa có chứng cứ cụ thể nào để xác định ngài Khương Tăng Hội khai sơn ở đâu, mở Pháp hội nào, truyền pháp cho ai, có là tổ một tông phái nào không. Tuy vậy Thiền tông Việt Nam vẫn tiếp tục pháp triển trên nền tảng này đến thế kỷ thứ 6 thì xuất hiện Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
a.Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
Thiền phái do Đại sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người sáng lập. Ngài là người Ấn Độ sang Trung Hoa học pháp với Tam Tổ thiền tông Trung Hoa: Tăng Xán. Sau đó năm 580, ngài sang Việt Nam, đến chùa Pháp Vân, gặp và truyền pháp cho sư Pháp Hiền. Từ đây thiền tông Việt Nam chính thức có một thiền phái thực sự, kế thừa những tinh hoa của thiền tông đạo Phật. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi kể từ đời Pháp Hiền thì truyền thêm được 18 thế hệ (đến đầu thế kỷ 13).
b.Thiền phái Vô Ngôn Thông
Thiền phái do Đại sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, Trung Quốc là người sáng lập. Ngài ngộ pháp từ Đại sư Bách Trượng (ĐS Bách Trượng đắc pháp với ĐS Mã Tổ, ĐS Mã Tổ đắc pháp với ĐS Hoài Nhượng, ĐS Hoài Nhượng đắc pháp với lục tổ Huệ Năng. Như vậy Đại sư Vô Ngôn Thông thuộc thế hệ thứ 4 kể từ sau Lục tổ Huệ Năng). Năm 820, ngài từ Quảng Châu sang Việt Nam, đến chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, Bắc Ninh, truyền pháp cho ngài Cảm Thành. Thiền phái Vô Ngôn Thông bắt nguồn từ đó, truyền được 16 thế hệ (đến cuối thế kỷ 13).
c. Thiền phái Thảo Đường
Thiền phái do Đại sư Thảo Đường là người sáng lập. Ngài là người Trung Hoa, đệ tử của thiền sư Tuyết Đậu (? -1052). Thiền sư Tuyết Đậu, học pháp từ Đại sư Vân Môn (864 – 949) - người sáng lập thiền phái Vân Môn kế thừa dòng thiền Nam tông do Lục tổ Huệ Năng khởi xướng. Xét trên thế hệ truyền thừa thì ngài Thảo Đường thuộc thế hệ thứ 9 của Lục tổ Huệ Năng.
Trong sử có ghi lại, Đại sư Thảo Đường bị vua Lý Thánh Tông bắt làm tù binh, trong lúc đem quân chinh phạt Chăm Pa (năm 1069) và đem về Đại Việt. Sau đó với tài đức của mình, ngài được vua phong làm quốc sư. Từ đó, ngài Trụ trì chùa Khai Quốc tại kinh thành Thăng Long, lập ra Thiền phái Thảo Đường của Việt Nam, kéo dài 6 thế hệ, (đến đầu thế kỷ 13).
d.Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Thiền phái do sơ tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông là người sáng lập. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được xem là tiếp nối và hợp nhất của ba dòng thiền đang tồn tại ở Việt Nam trong thế kỉ 12. Đó là dòng Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, và Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Trong đó tư tưởng của dòng thiền Vô Ngôn Thông có sự ảnh hưởng trực tiếp hơn cả, thông qua các vị Đại sư Thường Chiếu (đời thứ 12 thiền phái Vô Ngôn Thông), rồi các vị Hiện Quang, Đạo Viên, Đại Đăng, Tiêu Diêu, Huệ Tuệ, Tuệ Trung…Các vị tổ kế tục là Đệ Nhị sư tổ Pháp Loa, đệ tam sư tổ Huyền Quang. Sau đời đệ tam sư tổ thiền phái còn kế tục thêm được 17 đời (đến cuối thế kỷ 17), rồi ngắt quãng đến đầu thế kỷ 21.
Trước đó, vào cuối thế kỷ 20, nhiều thiền viện mang hình ảnh thiền phái được xây dựng và thành lập, giúp cho việc phục hồi quảng bá dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử tới đại chúng.
Năm 2006, Y bát của thiền phái đã được truyền lại cho thiền sư Nguyệt Quang Tử, với sách “Định Pháp Vô Minh” nơi chứa bí quyết của thiền phái.
Thiên thu nay đã thỏa ước nguyền
Gươm thiêng trao trọn với niềm tin,
"Định pháp vô minh" ta truyền lại,
Cho con giữ mãi một đức tin
(Đệ nhất sư tổ TNT)
e. Thiền phái Lâm Tế
Vào khoảng nửa cuối thế kỷ 17, có một vị đại sư tên Minh Hoằng Tử Dung (đời thứ 34 dòng Lâm Tế), người Quảng Đông, Trung Quốc, đến khai sơn chùa Ấn Tôn ( nay thuộc thành phố Huế). Sau đó ngài đã truyền thiền cho đại sư Liễu Quán vào năm 1708. Từ đấy đại sư Liễu Quán (?-1793) chính thức là Tổ của dòng Lâm Tế Việt Nam, thuộc thế hệ 35 dòng Lâm Tế Trung Hoa. Đến nay, thiền phái này vẫn tồn tại ở miền Trung Việt Nam.
f. Thiền phái Tào Động
Tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam là Đại sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704), quê ở Thái Bình, sang Trung Quốc tu học. Đến năm 1667, sau ba năm ở Trung Quốc, ngài về nước, trú tại chùa Vọng Lão, huyện Đông Triều, Hải Dương. Đại sư thành lập Thiền phái Tào Động, phát triển mạnh mẽ hơn 100 năm. Đến ngày nay vẫn còn khá nhiều chùa và chư Tăng Ni thuộc Thiền phái Tào Động ở nhiều tỉnh thành ở miền Bắc.
Thiền tông Phật giáo nói chung và thiền tông Việt Nam nói riêng, đã trải qua một bề dày phát triển của lịch sử, từ thời Đức Phật còn tại thế tới nay đã hơn 2500 năm, vẫn chứng tỏ một sức sống trường tồn. Thiền giáo đã chỉ ra một con đường tu tập tâm linh, giúp hành giả tiến bộ trên con đường phát triển linh hồn của mình. Hy vọng rằng những thế hệ thiền sinh kế tục sẽ hoan hỷ nối tiếp dòng chảy bất tận của Thiền tông, của các vị tổ và mang được những giá trị đích thực của thiền vào cõi nhân sinh.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn:
Đoàn Trung Còn, hiệu đính Nguyễn Minh Tiến, Các tông phái Đạo Phật, Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Thích Phước Đạt, Lịch sử truyền thừa -Thiền phái Trúc Lâm.
Trần Tuấn Mẫn, Thiền tông Việt Nam.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I-II-II, Nhà xuất bản Văn Học, 1979.
Thích Phước Sơn, dịch và chú giải, Tam tổ thực lục, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995.
Thích Thanh Từ, Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu, 1997.
Trang bách khoa toàn thư mở https://vi.wikipedia.org.
Tags:
Khí Công,
Tâm Linh,
Thiền Lâm Vi Tiếu
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét