(Bài viết được hoàn thành
trong khoảng thời gian 20-24/4/2012)
Việc dựng vợ gả chồng
đối với các bạn trẻ dường như có vẻ không phức tạp cho lắm, với họ chỉ cần “tâm
đầu ý hợp”, “yêu nhau là lấy”, đồng thời sự lựa chọn chủ yếu dựa vào yếu tố
tình cảm và tính tình….Tuy nhiên với các bậc sinh thành thì đó lại là một vấn
đề phức tạp cần nhiều đắn đo, suy tính. Những tiêu chuẩn về tình cảm, tính tình
của con trẻ bị xem xét lại. Đồng thời mặt khác họ quan tâm đặc biệt tới vấn đề
nghề nghiệp, tuổi tác, sự môn đăng hậu đối...Dường như những thứ trên có vẻ tạm
ổn rồi thì một cửa ải cuối cùng hay được đặt ra đó chính là “sự hợp tuổi” của
hai trẻ.
Lúc này niềm tin vào số
mệnh lại được thổi bùng lên trong tâm trí của những bậc cha mẹ. Cũng đơn giản
thôi, khi cha mẹ luôn coi con cái là một phần quan trọng của cuộc đời mình. Họ
liền nhờ thầy so tuổi, tính duyên, nếu hợp thì đồng ý, nếu
gặp khắc thì có khi còn
ngăn cấm, cản trở. Những phương pháp được ứng dụng để làm việc này rất nhiều,
trong đó việc xét sự khắc hợp của vợ chồng bằng lý luận Phương đông chiếm đa
số, đó là chưa kể những phương pháp mang nhiều màu sắc huyền bí, kỳ ảo khác.
Tuy nhiên, theo tôi hầu hết các phương pháp đều tựu chung ở chỗ dùng các mã số
thuộc dạng siêu kí hiệu, siêu công thức để trả lời cho vấn đề hợp khắc của hai
người.
Về cơ bản có các phương
pháp xét đoán sự khắc hợp như sau:
1. Cách tính 2 tuổi dựa
theo Cung sinh và Cung phi của phong thủy.
2. Cách tính 2 tuổi dựa
theo Can của năm sinh.
3. Cách tính 2 tuổi dựa
theo Chi của năm sinh.
4. Cách tính 2 tuổi dựa
theo Bản mệnh của năm sinh.
5. Cách tính 2 tuổi kết
hợp cả 2 yếu tố: can năm sinh của người nam, và chi năm sinh của người nữ (cách
tính tuổi phổ thông của nước Triều Tiên xưa).
6. Cách tính 2 tuổi kết
hợp cả 3 yếu tố: can, chi, bản mệnh của năm sinh.
7. Cách tính sự khắc hợp
dựa theo lá số Tử vi của hai người.
8. Xem xét sự khắc hợp
của trai gái bằng cách xem xét cụ thể trường năng lượng.
….
Tôi nghĩ chìa khóa của
vấn đề khắc hợp vợ chồng chính là vấn đề phù hợp ít hay nhiều của trường năng
lượng giữa hai người. Cụ thể mỗi người khi sinh ra mang trong mình một trường
năng lượng có tính đặc thù. Và trường năng lượng ấy luôn tương tác với những
trường năng lượng xung quanh. Khi trường năng lượng đó gặp những trường năng
lượng tương đồng, hòa hợp thì chúng tương tác theo chiều hướng tích cực mang
đến những điều tốt đẹp, thuận lợi cho đương sự. Và ngược lại nếu hai trường
năng lượng không tương đồng hòa hợp thì chúng tương tác với nhau theo chiều
hướng xấu và kết quả là sự bất hòa, cản trở, khó khăn, có người gọi là “không
hợp”. Qua quan sát thực tế, hầu hết tất cả các phương pháp xem xét sự khắc hợp
của 2 người như: tính tuổi hoặc dự đoán bằng các phương pháp khác đều có bản
chất là xem xét sự hòa hợp tương đồng của 2 trường năng lượng. Điều đó là như
thế nào?
Một con người sinh ra
được đánh dấu bằng một sự kiện quan trọng trong hệ thống không gian nhiều chiều
mà ở đó chiều không gian và chiều thời gian của hệ thống không gian đang hiện
hữu đóng một vai trò gần như là đứng đầu. Sự đánh dấu đó được ghi lại bằng sự
kiện là: giờ, ngày, tháng, năm sinh…của người đó. Theo nền văn hóa phương đông,
chúng được ký hiệu bằng những siêu ký hiệu là Thiên Can và Địa Chi
Trong đó Thiên Can bao
gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
Địa chi bao gồm: Tí,
Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Những siêu ký hiệu đó
được dùng để mã hóa thời điểm sinh của một con người. Đó chính là những siêu ký
hiệu mã hóa lại đặc tính năng lượng của con người dựa vào thời điểm người đó
sinh ra. Theo đó thì không có gì lạ khi hầu hết những bộ môn bói toán (tôi
thích dùng từ này hơn từ dự đoán) số mệnh con người đều lấy nó làm dữ liệu đầu
vào.
Liệu có thể nói vấn đề
tương hợp, xung khắc của vợ chồng chính là vấn đề mang bản chất là tương tác
trường năng lượng giữa hai người. Mà trường năng lượng ấy được mã hóa bằng các
siêu ký hiệu và siêu công thức được dùng trong các bộ môn dự đoán số mệnh con
người. Hoặc cũng có thể năng lượng ấy được đáo đạt bằng một cách đặc biệt nào
đó.
Dưới đây tôi sẽ trình
bày tổng quát về một số phương pháp, luận tuổi, dự đoán sự hợp khắc của mối
quan hệ trai gái/vợ chồng. Hy vọng phần nào có thể làm rõ ý niệm này...
1. Sự khắc hợp của trai
gái tính theo Cung sinh và Cung phi của Phong thủy.
Việc xem xét sự khắc hợp
này dựa trên một trường phái lớn của phong thủy là trường phái bát trạch minh
cảnh. Theo trường phái này thì với mỗi một năm tuổi và giới tính khác nhau ta
thành lập được một quái mệnh (mệnh được mã hóa bằng bát quái) và mối quái mệnh
thì có những hướng nhà ở tốt và xấu nhất định. Cụ thể những người có quái mệnh
là Chấn, Tốn, Ly, Khảm (gọi là người có mệnh Đông tứ trạch) thì có các hướng
tốt cố định là: Bắc, Đông, Đông Nam và Nam, còn lại là các hướng
xấu. Và ngược lại với những người có quái mệnh là, Khôn, Đoài, Càn, Cấn (gọi là
những người có mệnh Tây tứ trạch) có các hướng tốt còn lại (so với người mệnh
Đông tứ trạch). Trên cơ sở đó, mỗi người đều có 4 hướng nhà tốt và 4 hướng nhà
xấu là: Sinh Khí – Thiên Y – Phúc Đức – Phục Vị - Tuyệt Mạng -Ngũ Quỷ – Lục Sát
– Họa Hại.
Trên cơ sở đó việc ứng
dụng các thuật ngữ của Phong thủy bát trạch được tính toán(?) ứng dụng vào việc
tính sự khắc hợp của trai gái. Cụ thể:
Về mặt định lượng, có 8
cung sinh cho và 8 cung phi cho nam và nữ (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn,
Khôn), sự phối hợp của cung sinh và cung phi được xét độc lập kết hợp lại sẽ
cho ra 2 x 64=128 trường hợp, bao gồm 2 lần 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn –
Ly, Càn – Chấn, Càn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ:
Sinh Khí – Thiên Y – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa
Hại. Như vậy có 2 x 64 =128 trường hợp tương tác tuổi. Về mặt đại thể một người
có một cung phi hoặc một cung sinh cụ thể thì tương tác với các tuổi khác thì
một nửa là tương tác tốt, một nửa là tương tác xấu. Bởi thế cho nên về mặt xác
xuất thì cứ gặp 2 người là sẽ có một người hợp với mình. Nói một cách phổ quát
thì trong 40 triệu người đàn ông (phụ nữ) của nước mình chẳng hạn thì có tới 20
triệu người hợp để bạn có thể đi tới hôn nhân. Như vậy tỷ lệ phù hợp là 1/2.
2. Sự khắc hợp của trai
gái tính theo Can của năm sinh.
Thiên Can bao gồm: Giáp,
Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
Việc sinh khắc giữa trai
gái tùy theo 2 can của 2 tuổi trai gái hợp nhau hay phá nhau. Khi hợp thì có
triển vọng tốt, khi phá thì xấu.
- Có 5 trường hợp tốt:
Khi nào 2 can rơi vào 1
trong các trường hợp sau gọi là tốt:
+ Giáp hợp Kỷ,
+ Ất hợp Canh,
+ Bính hợp Tân,
+ Đinh hợp Nhâm,
+ Mậu hợp Quý.
Việc hợp có hai chiều
tức là VD Giáp hợp Kỷ cũng có nghĩa là Kỷ hợp Giáp
- Có 10 trường hợp xấu:
Khi nào 2 can rơi vào 1
trong mười trường hợp sau gọi là phá:
+ Giáp phá Mậu,
+ Ất phá Kỷ,
+ Bính phá Canh,
+ Đinh phá Tân,
+ Mậu phá Nhâm,
+ Kỷ phá Quý,
+ Canh phá Giáp,
+ Tân phá Ất,
+ Nhâm phá Bính,
+ Quí phá Đinh.
Trong quan hệ phá thì
chỉ có tính một chiều. Chẳng hạn Giáp phá Mậu chứ Mậu lại không phá Giáp. Nói
một cách cụ thể nếu trai tuổi Giáp, gái tuổi Mậu thì tuổi cô gái bị Phá. Điều
này không có nghĩa là người con trai đắc lợi. Vì dù sao khi tuổi cậu phá tuổi
cô, hạnh phúc phải bị sứt mẻ, cậu cũng ảnh hưởng. Có lẽ ý quan tâm ở đây là
tuổi nào bị phá thì nặng hơn mà thôi.
Một số nhận xét [1]
+ Trong năm cách hợp,
bao giờ cũng có một can dương và một can âm
+ Trong mười cách phá,
bao giờ hai can cũng đồng âm hoặc đồng dương
+ Không phải bất kỳ can
dương nào cũng hợp với can âm và không phải hai can cùng dương hoặc cùng âm nào
cũng phá nhau.
+ Cách hợp và phá chỉ có
tính cố định cho 2 can nào đó mà thôi
+ Có một số can không
hợp cũng không phá nhau. Ví dụ như Ất và Mậu, không thấy nằm trong cách hợp hay
cách phá nào. Có lẽ đây là trường hợp bình thường, không phá có thể xem như
hợp.
Như vậy, nếu tính toán
định lượng trung bình cứ 10 người thì có một người hợp với mình khi tính toán
khắc hợp tuổi theo hàng can của năm sinh. Tương tự cho trường hợp phá. Xét về
tính xác suất thì ít ra phương pháp này cũng có tính phổ quát của sự tương hợp
đã được giảm xuống, xem ra có vẻ tính chính xác cao hơn phương pháp cung phi ở
trên. Với tỷ lệ phù hợp là 1/10.
3. Sự khắc hợp của trai
gái tính theo Chi của năm sinh.
Địa chi bao gồm: Tí,
Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
a/Vấn đề hợp:
Có người cho rằng phải
lấy qui tắc tam hợp và nhị hợp để xét tuổi trai gái. Theo đó những bộ dưới đây
gọi là hợp nhau.
+ Dần Ngọ Tuất + Tỵ Dậu
Sửu+ Thân Tý Thìn, + Hợi Mão Mùi. Những bộ sau gọi là nhị hợp: Tý Sửu-Dần
Hợi-Mão Tuất-Thìn Dậu-Tỵ Thân-Ngọ Mùi.
Theo tác giả Nguyễn Phát
Lộc, ông cho rằng 2 qui tắc trên không phải để xét tuổi trai gái mà để định
cách phối chiều trong lá số tử vi mà thôi. Những chữ Dần, Ngọ Tuất là tên các
cung trên lá số tử vi chứ không phải tên các tuổi. Vậy nên ông cho rằng không
thể lấy quy tắc phối chiều giữa các cung là quy tắc sinh hợp giữa các tuổi.
Thành thử ông cho rằng quan điểm này không đúng.
Một số người còn đem cả
lý luận về đặc tính của các con thú trong 12 địa chi để tìm hiểu sự xung khắc.
Quan điểm này xem không ổn vì có quá nhiều mâu thuẫn về các lối suy diễn..
Về bản thân tôi, khi
trao đổi với một số người nghiên cứu lý học thì cũng có nhiều ý kiến trái chiều
nhau. Tuy nhiên đa phần quan điểm đều đồng tình về việc sử dụng những bộ Tam
hợp và nhị hợp trong một phần của xét đoán tuổi vợ chồng.
b/ Vấn đề khắc:
Có quan điểm cho rằng có
6 loại tuổi khắc nhau: Tý Ngọ, Mão Dậu, Dần Thân, Tỵ Hợi, Thìn Tuất, Sửu Mùi.
Nếu nhìn trên bình diện
phương hướng thì đây đều là các hướng đối diện nhau qua trung tâm. VD Tý là
phương Bắc, khắc với Ngọ là phương Nam…đồng thời Tý là Thủy cũng khắc Ngọ là
Hỏa nên Tỵ Ngọ cũng khắc nhau theo ngũ hành. Tôi cũng đính chính luôn là nhiều
người dựa vào các câu phú chẳng hạn như, “Tý Ngọ Mão Dậu Tứ hành xung” thực
chất nếu có xung thì chỉ có Tý xung với Ngọ, Mão xung với Dậu chứ không phải cả
4 cái đều xung nhau.
Lại xét về mặt định
lượng, nếu tính theo hàng chi thì trung bình cứ 12 người ta gặp thì có 3 người
hợp với mình. Cũng có nghĩa là trung bình cứ 4 người thì có một người hợp tuổi
với mình. Thậm chí tất cả những người sinh trong một năm cũng hợp với mình VD
Bạn tuổi Dần thì tất cả những người sinh trong năm Hợi đều hợp với bạn. Xem ra
cách tính tuổi khắc hợp trai gái theo chi năm sinh cũng có xác suất tin cậy
không cao lắm. Với tỉ lệ phù hợp tính theo hàng chi là ¼.
4. Sự khắc hợp của trai
gái tính theo Bản mệnh
Có tất cả 30 loại bản
mệnh khác nhau là: (theo trường
phái Lạc Việt, khác với lục thập Hoa Giáp cổ xưa là hiệu chỉnh lại tính chất
mệnh Thủy và Hỏa thay đổi cho nhau))
Giáp Tí. Ất Sửu: Hải
Trung Kim
Bính Dần. Đinh Mão:
Giáng Hạ Thuỷ
Mậu Thìn. Kỷ Tỵ: Đại Lâm
Mộc
Canh Ngọ. Tân Mùi: Lộ
Bàng Thổ
Nhâm Thân. Quí Dậu: Kiếm
Phong Kim
Giáp Tuất. Ất Hợi: Tuyền
trung Thuỷ.
Bính Tí, Đinh Sửu: Lư
Trung Hoả
Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành
Đầu Thổ
Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch
Lạp Kim.
Nhâm Ngọ, Quí Mùi: Dương
Liễu Mộc
Giáp Thân, Ất Dậu: Sơn
Đầu Hoả
Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc
Thượng Thổ.
Mậu Tí, Kỷ Sửu: Trường
Lưu thuỷ
Canh Dần, Tân Mão: Tùng
Bách Mộc
Nhâm Thìn, Quí Tỵ: Tích
Lịch Hoả.
Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim
Bính Thân, Đinh Dậu: Thiên Hà Thuỷ
Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình Địa Mộc.
Canh Tí, Tân Sửu: Bích Thượng Thổ
Nhâm Dần, Quí Mão: Kim Bạch Kim
Giáp Thìn, Ất Tỵ: Đại Khê Thuỷ.
Bính Ngọ, Đinh Mùi: Sơn Hạ Hoả
Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Dịch Thổ
Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim.
Nhâm Tí, Quí Sửu: Tang Đố Mộc
Giáp Dần, Ất Mão: Phúc Đăng Hoả
Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa Trung Thổ.
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Đại Hải Thuỷ
Canh Thân, Tân Dậu: Thạch Lựu Mộc
Nhâm Tuất, Quí Hợi: Thiên Thượng Hoả.
Trong bất kỳ một bản mệnh nào cũng có hai yếu tố là: Ngũ hành của bản mệnh
và thể tính của bản mệnh đó. Ví
Dụ Mậu Thìn là Đại Lâm Mộc có ngũ hành thuộc mộc và thể tính là Cây trong rừng
lớn. Với hai yếu tố này, đặc biệt là thể tính được diễn âm từ văn hán. Hầu hết
những lời giải thích về thể tính của từng tuổi đều do người đời sau tự suy diễn
ra mà không có sách nào ghi lại. Cho nên việc giải đoán rất phong phú đa dạng,
mạnh ai nấy đoán theo lối suy diễn của riêng mình.[1]
Về cơ bản việc giải đoán khắc hợp dựa vào 2 bản mệnh mặc dù khá thông dụng
nhưng xét cho cùng thì không giúp đưa đến một kết luận dứt khoát cho đa phần
các trường hợp. Vd của con trai mệnh là Hải trung kim (Vàng trong biển), con
gái là Đại Lâm mộc (Cây trong rừng lớn). Xét về mặt ngũ hành thì Kim khắc Mộc,
tức bản mệnh của người con trai khắc bản mệnh người con gái. Nhưng xét về mặt
thể tính thì kim ở biển thì không thể cắt được gỗ ở trong rừng. Vậy nên có
người kết luận là khắc mà không khắc được. Một kết luận khá kỳ quoặc. Mặc dù cứ
cho là chấp nhận kết luận ấy đi thì cũng khó mà tiên toán nổi hình thái của
hạnh phúc hay khó khăn ở mức độ như thế nào...Vậy nên có lẽ việc đối chiếu hai
bản mệnh chỉ có ý nghĩa là bổ túc cho sự khắc hợp hơn là quyết định sự khắc hợp
một cách đơn lẻ. [1]
5. Sự khắc hợp của trai gái tính theo can năm sinh của người nam, và chi
năm sinh của người nữ.
Cách dự đoán này còn gọi là bài toán Cao Ly, hoặc được diễn giải dưới dạng
Cao Ly đồ hình, mà nội dung được gói trong trong bài phú sau đây.
*Nam GIÁP-KỶ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tam Hiển Vinh
Sửu Mùi bị nhì Bần Tiện
Dần Thân được nhất Phú Quý
Mão Dậu được bị ngũ Ly Biệt
Thìn Tuất được tứ Đạt Đạo
Tỵ Hợi được tam Hiển Vinh.
*Nam tuổi ẤT CANH lấy vợ
tuổi
Tý Ngọ bị nhì Bần Tiện
Sửu Mùi được nhất Phú Quý
Dần Thân bị ngũ Ly Biệt
Mão Dậu được tứ Đạt Đạo
Thìn Tuất được tam Hiển Vinh
Tỵ Hợi bị Nhì Bần Tiện.
*Nam tuổi BÍNH TÂN lấy vợ
tuổi
Tý Ngọ được nhất Phú Quý
Sửu Mùi bị ngũ Ly Biệt
Dần Thân được tứ Đạt Đạo
Mão Dậu được tam Hiển Vinh
Thìn Tuất bị nhì Bần Tiện
Tỵ Hợi được nhất Phú Quý.
*Nam tuổi ĐINH NHÂM lấy vợ tuổi
Tý Ngọ bị ngũ Ly Biệt
Sửu Mùi được tứ Đạt Đạo
Dần Thân được tam Hiển Vinh
Mão Dậu bị nhì Bần Tiện
Thìn Tuất được nhất Phú Quý
Tỵ Hợi bị ngũ Ly Biệt.
*Nam tuổi MẬU QUÝ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tứ Đạt Đạo
Sửu Mùi được tam Hiển Vinh
Dần Thân bị nhì Bần Tiện
Mão Dậu được nhất Phú Quý
Thìn Tuất bị ngũ Ly Biệt
Tỵ Hợi được tứ Đạt Đạo.
Đây là những câu phú đã được truyền lại từ xa xưa, trong đó dùng hàng
can năm sinh của người nam phối với hàng chi năm sinh của người nữ mà xét đoán
để đưa ra các nhận định. Trong đó
các trường hợp tốt là Hiển Vinh, Phú Quý, Đạt Đạo, các trường hợp xấu là Ly
Biệt, Bần Tiện. Vd nam sinh năm Ất lấy vợ sinh năm Thìn hoặc Tuất thì được Hiển
Vinh. Đây cũng là một cách xét đoán khá phổ biến vì ngoài việc nó đưa ra được
nhận định tốt hay xấu khi hai người lấy nhau thì các câu phú còn chỉ ra được
một cách tương đối cụ thể tình trạng của sự kết hợp đó là gì như Hiển Vinh hay
Bần Tiện…
Xét về độ tin cậy của phương pháp này thì sao, tôi có vài ý thế này. Một
là dữ liệu đầu vào của phương pháp chỉ dừng lại ở Can năm sinh của nam và chi
năm sinh của nữ nên đương nhiên phản ánh sự phù hợp về trường năng lượng của
hai người cũng dừng lại ở mức không cao( cũng như đối với các trường hợp trên).
Cụ thể xét về mặt thống kê thì trung bình một người nam sinh năm bất kỳ thì sẽ
có tới 6 tuổi năm sinh của nữ có thể phù hợp với mình và ngược lại với trường
hợp xấu. Như vậy thì cứ 2 triệu người bạn gặp thì sẽ có thể có tới khoảng 1
triệu người phù hợp với bạn. Tỷ lệ phù hợp là 1/2. E rằng tỷ lệ phù hợp là khá
cao (Bằng với phương pháp cung phi). Âu cũng có giá trị về mặt nhân sinh quan
tốt cho mối quan hệ của con người.
6. Sự khắc hợp của trai gái tính theo can, chi, bản mệnh của năm sinh
Đây là phương pháp dự đoán phối hợp cả 3 cách tính độ phù hợp của hàng
can, hàng chi và bản mệnh năm sinh của đôi trai gái. Căn cứ theo các nguyên tắc
hợp, khắc của cả 3 yếu tố mà người đoán đưa ra nhận định cuối cùng.
Theo trường phái Luận tuổi Lạc Việt cũng sử dụng cả 3 yếu tố trên để
luận tuổi trai gái. Theo đó [4]
Trong tương quan Thiên Can thì chồng phải dưỡng vợ - Dương sinh Âm. Hoặc
vợ phải khắc chồng như chồng Ất (Mộc) gặp vợ Tân (Kim); Hay là tương hữu như
Bính hợp Tân, nếu Thuận Âm Dương là tốt như chồng Bính vợ Tân. Xấu nhất là
Thiên Can vợ sinh chồng.
Trong tương tác Mạng, thì Vợ nên dưỡng chồng . Bởi vậy lấy mạng vợ dưỡng
mạng chồng là tốt nhất. Tương quan Địa chi, mang tính đồng đẳng là tốt nhất.
Thí dụ: Tam hợp, nhị hợp. Hoặc vợ sinh chồng là tốt nhì…
Phương pháp luận tuổi trai gái dựa vào 3 yếu tố, Can Chi, bản mệnh của
nam nữ là một phương pháp khá tổng quát khai thác triệt để những thông tin năng
lượng hàm chứa trong dữ liệu năm sinh của hai người. Tuy nhiên năng lượng của
con người không chỉ được mã hóa bởi dữ liệu năm sinh mà còn được quy định bởi
dữ liệu giờ sinh, ngày sinh và tháng sinh.
7. Sự khắc hợp của trai gái tính theo lá số Tử vi của hai người
Tử Vi là một bộ môn dự đoán tương lai về số phận của từng con người cụ
thể và những vấn đề chính liên quan đến cá nhân đó. Để lập một lá số Tử Vi, dữ
kiện cần phải có là: giới tính, giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch Đông
phương.
Trên cơ sở dữ kiện đầu vào đó, khoảng hơn 110 đại lượng gọi theo tên
những vì sao được sắp xếp vào 12 cung quy ước của lá số, lần lượt có tên gọi
như sau: 1. Bản mệnh, 2. Anh em (Huynh đệ), 3. Vợ hoặc chồng (Phu Thê), 4. Con
cái (Tử Tức), 5. Tiền Tài (Tài Bạch), 6. Bệnh Tật (Tật ách), 7. Di chuyển
(Thiên Di), 8. Quan hệ xã hội (Nô Bộc), 9. Nghề nghiệp chức vụ (Quan Lộc), 10.
Đất đai nhà cửa (Điền Trạch), 11. Phúc Đức, 12. Cha mẹ (Phụ Mẫu). Với khoảng
hơn 110 vì sao được sắp xếp theo những quy luật nhất định dựa trên dữ kiện mã
hóa đầu vào là giờ ngày tháng năm sinh, giới tính thì một lá số trở thành một
bảng mật mã siêu công thức (cấp 2) mô tả đặc điểm năng lượng của cá nhân đó
trong suốt chu trình sinh lão bệnh tử của một con người xã hội. Như vậy, với
mười hai cung của Tử Vi đã mô tả hầu hết những mặt chủ yếu của sự hoạt động và
những mối quan hệ gia đình, xã hội của một cá nhân cụ thể, trong đó có mối quan
hệ vợ chồng. Với sự mô tả chi tiết cụ thể năng lượng của một cá nhân trên lá số
thì việc xem xét sự khắc hợp của trai gái dựa theo lá số tử vi có thể coi là
phương pháp toàn diện, đã lấy đầy đủ thông tin năng lượng được mã hóa bởi thời
khắc sinh ra của người đó. Việc xem xét đó chủ yếu dựa vào Cung phu thê (cung
phối) của hai lá số.
Tử vi cho rằng hai người nam, nữ có duyên vợ chồng với nhau, thông
thường lá số của hai người phải hội tụ được hai yếu tố: truyền cung và truyền
tinh. [5]
- Truyền cung: tức là cung mệnh của người này trùng với cung phu (thê)
hoặc xung chiếu hoặc tam hợp với cung phu (thê) của người còn lại.
Khi hai lá số có truyền cung với nhau là đã đạt được một sự tương hợp
đặc biệt giữa hai người nhưng đó không phải là tất cả. Có lẽ vấn đề coi trọng
hơn là truyền tinh.
- Truyền tinh (nghĩa là có sự di chuyển của tinh tú từ lá số này sang lá
số kia): Lý luận của vấn đề này như sau: trong 12 cung của lá số tử vi thì có
một cung gọi là cung Phu/Thê nó cho phép giải đoán các vấn đề liên quan tới
người hôn phối và gia đạo của mỗi người. Đương nhiên nó cũng dùng để giải đoán
các vận hạn. Thông thường có thể dùng các sao của cung này để đoán về đặc tính
người hôn phối. Nếu chính tinh (một số người còn tính cả trung tinh, phụ tinh)
ở cung Phu (thê) của người này lại xuất hiện trong cung Mệnh (chiếu, hợp) của
người còn lại thì hai lá số đó gọi là truyền tinh với nhau. Việc hội tụ được
một trong hai yếu tố trên thì Tử vi nói hai người đó có duyên vợ chồng với
nhau. Đồng thời cũng có thể nói hai người này là hợp với nhau, có số là vợ
chồng với nhau. Mặc dù vẫn còn phải xét đoán thêm rất nhiều các cát tinh, cũng
như hung tinh, bại tinh khác không chỉ ở cung Phối mà còn ở các cung khác như:
cung Mệnh, cung Thân, Cung Phúc, cung Nô, Cung Di… để có cái nhìn cụ thể về sự
tương hợp này.
Về sự tin cậy của phương pháp, vì một lá số Tử vi được lập ra dựa trên
dữ kiện mã hóa đầu vào là giờ ngày tháng năm sinh, giới tính nên một lá số tự
nó đã trở thành một bảng mật mã siêu công thức(cấp 2) mô tả khá toàn diện đặc
điểm năng lượng của một các nhân riêng biệt cụ thể. Chính vì tính đầy đủ của
thông tin dữ liệu đầu vào mà có thể nói rằng việc giải đoán sự khắc hợp của
trai gái theo lá số tử vi là một phương pháp toàn diện, cụ thể và chính
xác.
Xét về mặt thống kê thì, mỗi một cá nhân vào thời điểm sinh ra mang cho
mình một lá số riêng biệt mặc dù có ước chừng khoảng nửa triệu lá số tất cả
theo đó vẫn có tính lặp lại. Nhưng chỉ với ngần đó lá số thôi thì sự phối hợp
của nửa triệu lá số đó với nhau tạo ra vô vàn những cặp tương tác khác nhau.
Nên hoàn toàn có thể nói rằng sự khắc hợp của trai gái theo lá số tử vi mang
đậm tính riêng lẻ, cho từng trường hợp cụ thể, nó không giống như cách xét đoán
những phương pháp trên. Bởi nó khắc phục được những hạn chế của những cách giải
đoán phía trên chỉ dùng dữ liệu thông tin là năm sinh để kết luận. Ví dụ, tôi
tuổi Sửu lẽ nào tôi lại không hợp với tất cả những người sinh năm Mùi ( theo
quan điểm Sửu Mùi tương xung). Nhưng xét theo Tử vi thì những người sinh năm
Sửu còn có những đại lượng mã hóa năng lượng khác là giờ, ngày, tháng. Bởi thế
cho nên muốn xem xét được một cách toàn diện sự khắc hợp của trai gái thì
phương pháp xét đoán đó phải có đủ tính phổ quát hơn cả, bao hàm được toàn bộ
đặc tính năng lượng của các nhân đó, ít nhất cũng là năng lượng định hình ở
thời điểm sinh ra.
8. Cách xem xét sự khắc hợp của trai gái bằng cách xem xét cụ thể trường
năng lượng
Tất các phương pháp có tính chất gần giống nhau tôi xếp chung vào cùng
một loại, với bản chất là bằng một cách nào đó mà thông tin là sự tương hợp
năng lượng của hai người được lộ ra. Trong đó một số phương pháp được sử dụng
như:
- Phương pháp cảm xạ:
Là một phương pháp ứng dụng khả năng cảm nhận các dòng năng lượng của cơ
thể con người để từ đó lấy được những thông tin cần thiết. Thường những thông
tin đó được mã hóa thông qua chuyển động của con lắc cảm xạ, đũa cảm xạ… [PTG].
Trên cơ sở đó khi xem xét sự khắc hợp của hai người, nhà cảm xạ sẽ nắm bắt được
sự tương hợp một cách cụ thể thông qua sự chuyển động của con lắc…Để có thể có
được thông tin chi tiết, cụ thể về sự tương hợp này thì nhà cảm xạ hoàn toàn có
thể lập cảm xạ đồ, với cách hình thái tương tác khác nhau. VD, rất khắc, khắc
vừa, khắc, hợp, hợp nhiều, rất hợp...
- Phương pháp gieo quẻ dịch:
Là một phương pháp bói toán được ứng dụng từ rất lâu đời, mà bằng cách
nào đó mà những thông tin tiên tri được lấy và biểu thị qua các quẻ của bát
quái. Các cách lập quẻ cũng rất nhiều nhưng phổ biến thường là gieo quẻ bằng
đồng tiền cổ và gieo quẻ theo thời gian. Khi xem xét sự khắc hợp của trai gái
theo phương pháp gieo quẻ dịch thì thông tin về sự khắc hợp đó sẽ được biểu thị
rõ qua tính chất của quẻ gieo được. VD gieo quẻ theo thời gian thì ngay lập tức
định được quẻ thượng và quẻ hạ, định được hào động để phân chia quẻ thể, quẻ
dụng, quẻ biến, tùy theo tính chất tương sinh, tương khắc của quẻ thể, quẻ dụng
mà đoán sự khắc hợp của trai gái, tùy theo tính chất của quẻ biến mà đoán diễn
biến của sự khắc hợp.
- Phương pháp kiểm tra trực tiếp năng lượng của hai người
Là một phương pháp cao cấp, mà trong đó sự đáo đạt thông tin được thực
hiện bằng những cách thức đặc biệt. Ví dụ, những người khai mở được con mắt thứ
3 (thiên nhãn) có khả năng lấy được thông tin về sự tương hợp năng lượng của
hai người, từ đó có thể đưa ra những dự đoán về sự khắc hợp của trai gái (hoặc
hai người bất kỳ), hoặc những người có khả năng giao tiếp với những vị có khả
năng (quyền năng) trong không gian (tâm linh) những vị đó (trong không gian) có
thể đưa ra những lời nhận xét cụ thể về sự tương hợp của trường năng lượng hai
người. Giúp đưa ra được những cái nhìn chính xác khách quan.
Đặc điểm chung của phương pháp này là xem xét được một cách trực tiếp
khả năng tương hợp năng lượng của hai người cụ thể (đương nhiên không chỉ có
ứng dụng trong việc khắc hợp của vợ chồng), giảm thiểu được tính đại trà, thông
tin lấy được mang tính cá nhân dị biệt.
Như vậy có thể nói vấn đề tương hợp, xung khắc của vợ chồng chính là vấn
đề mang bản chất là tương tác trường năng lượng giữa hai người. Mà trường năng
lượng ấy được mã hóa bằng các siêu ký hiệu và siêu công thức được dùng trong
các bộ môn dự đoán số mệnh con người. Hoặc cũng có thể năng lượng ấy được đáo
đạt bằng một cách đặc biệt nào đó. Do vậy tôi quan điểm cá nhân của tôi về vấn
đề xem xét sự khắc hợp của trai gái, nếu cần phải thực hiện thì nên sự dụng các
phương pháp có độ chính xác cao, nếu chỉ dừng ở các phương pháp xét đoán dựa
theo năm sinh thì kết luận đưa ra rất bấp bênh độ chính xác hạn chế. Vì vậy các
bạn yêu nhau đừng nên đặt nặng vấn đề tuổi tác nhiều quá, cứ thuận theo tự
nhiên yêu nhau tự cảm thấy hợp thì hoàn toàn có thể tiến tới hôn nhân Tại sao
tôi lại nói như vậy? Có lẽ tôi sẽ trình bày trong một tiểu luận khác về bản
chất số mệnh con người.
Kết luận.
Qua bài viết này, tôi
muốn giới thiệu với các bạn về một cách nhìn tổng thế về vấn đề sự khắc hợp của
đôi lứa dưới nhãn quan năng lượng (đương nhiên cũng có thể ứng dụng cho các mối
quan hệ nhân sinh khác). Bài viết có tham vọng là giải thích được bản chất của
vấn đề khắc hợp giữa hai cá nhân cụ thể theo quan điểm năng lượng. Mà ở đó, xét
cho cùng thì sự khắc hợp của hai người chính là sự phù hợp của hai trường năng
lượng của hai cá nhân đó. Mà trường năng lượng này có thể được ghi lại bởi thời
điểm người đó sinh ra và được mã hóa lại bằng các siêu công thức, siêu ký
hiệu-đó là 10 thiên can và 12 địa chi của lý học phương đông. Hoặc trường năng
lượng đó có thể được biết đến thông qua các phương pháp đặc biệt khác…
Trên đây là quan điểm cá
nhân của tôi về vấn đề khắc hợp của trai gái với nhãn quan năng lượng. Tôi biết
là còn rất nhiều cách nhìn nhận khác về vấn đề này. Trình độ lý học, cũng như
các bộ môn khác của tôi rất nông cạn, những thuật ngữ cũng có thể có nhiều chỗ
chưa đúng, nếu sai cũng mong mọi người chiếu cố, bỏ qua cho. Cũng rất mong được
sự tiếp nhận, góp ý của các vị, các bạn trên tinh thần xây dựng, cầu sự tiến
bộ, với tinh thần cốt lõi của bài viết là xoay xung quanh vấn đề dùng quan điểm
năng lượng để giải thích mối tương tác quan hệ các cá nhân trong xã hội. Chân
thành cảm ơn các bạn đã quan tâm.
Phong Thủy Gia kính
bút.
Tài liệu tham khảo
[1], Nguyễn Phát Lộc, Tử
vi thực hành, Khoa học Nhân văn, năm Nhâm Tý.
[2], Tuệ Duyên, Kiến thức
nhà ở theo phong tục dân gian, Nhà xuất bản Hải Phòng, 2003.
[3], Thiệu Vĩ Hoa, Chu
Dịch với dự đoán học, Nhà xuất bản văn hóa, 1998.
[4], Nguyễn Vũ Tuấn Anh,
Tiểu luận Luận Tuổi Lạc Việt, diễn đàn Lý học phương Đông.
[5], Cùng tác giả, tham
luận duyên vợ chồng theo quan điểm Tử Vi.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét